DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 9/16 ĐầuĐầu ... 7891011 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 81 tới 90 của 160
  1. #81
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    28. THIỀN SƯ Trí Bảo (? - 1190)


    Chùa Thanh tước, núi Du hý, làng Cát lợi hy, Thường lạc. Người Ô diên Vĩnh Khương, họ Nguyễn, nguyên là cậu của Thái úy Tô Hiến Thành, triều vua Anh Tôn nhà Lý. Bỏ tục xuất gia, ở tại chùa núi đó, thường mặc áo rách, ăn gạo lứt, 10 năm chưa thay một chiếc áo, ba ngày không nấu một nồi cơm, tay chân chai cóp, thân thể khô gầy. Thấy một kẻ nghèo thì vòng tay tránh đường, gặp một sa môn thì quỳ gối lễ bái. Siêng tu thiền định, đến 6 năm thì đạo thành, bèn chống gậy xuống núi, hoặc sửa cầu đường, hoặc dựng chùa tháp, tuỳ duyên khuyến khích mọi người, không màng lợi dưỡng.
    Có lần, có vị Tăng hỏi: "Sanh từ đâu lại, chết sẽ về đâu?".
    Sư trầm ngâm suy nghĩ, thì vị tăng ấy bảo: "Trong lúc ngẫm nghĩ thì mây trắng đã bay xa ngàn dặm".
    Sư không đáp được. Vị Tăng ấy liền quát: "Chùa tốt mà không có Phật".(1) Nói rồi bèn bỏ đi. Sư tự than rằng: "Ta tuy có tâm xuất gia, nhưng chưa đạt được yếu chỉ của người xuất gia. Như kẻ đào giếng, dù đào đến chín nhẫn mà không tới mạch, còn phải bỏ giếng, huống là tu thân mà chẳng ngộ đạo thì phỏng có ích gì?". Từ đó, Sư đi khắp bốn phương, tìm hỏi các hàng tri thức. Nghe Đạo Huệ đang giáo hoá ở núi Tiên du, bèn đến bái kiến hỏi rằng: "Sinh từ đâu đến, chết rồi lại đi đâu?".
    Huệ đáp: "Sinh không từ đâu lại, chết cũng chẳng về đâu".
    Sư thưa: "Thế chẳng lẽ rơi vào chỗ hư vô sao?"
    Huệ bảo: "Chân tính tròn đầy mầu nhiệm, bản thể vốn không tịch, vận dụng tự tại không đồng với sinh tử. Vì lẽ đó mà sinh không từ đâu đến, chết cũng chẳng về đâu".
    Sư nghe lời bèn tỉnh ngộ, rồi nói:

    "Chẳng nhân gió cuốn mây bay sạch,
    Sao thấy trời xanh muôn dặm thu?"
    (2)(*)

    Đạo Huệ hỏi: "ông thấy được gì?"
    Sư thưa:

    "Quen nhau khắp thiên hạ,
    Tri âm được mấy người !"
    (3)(**)

    Rồi từ tạ trở về núi. Từ đấy, Sư nói ngang, nói dọc như chọi đá nháng lửa. Một hôm Sư thăng đường, Tăng tục đông nghẹt, có người hỏi: "Thế nào là tri túc?"
    Sư đáp: "Người xuất gia, tại gia đều dừng lại ở tri túc. Nếu tri túc thì ngoài chẳng lấn người, ttrong không tổn mình. Vật nhỏ nhặt như lá rau ngọn cỏ, người không cho, mình chẳng nên lấy.
    Huống gì những vật khác thuộc của người. Hãy dấy lên cái ý tưởng đó là vật của người thì mình rút cuộc không vì chúng mà sinh lòng trộm cắp. Cho đến thê thiếp của người, hãy dấy lên cái ý tưởng đó là thê thiếp của người, thì mình cũng không vì thế mà sinh lòng dâm. (***)

    Các người nghe ta nói kệ:

    "Bồ tát của mình biết đủ thôi,
    Của người chẳng muốn chỉ thương yêu .
    Lá rau không biếu, ta không lấy,
    Không tưởng của người, đức ngọc treo,
    Bồ tát vợ mình biết đủ thôi.
    Sao còn ham muốn vợ con người,
    Thiếp thê ai nấy lo gìn giữ,
    Sao nỡ lòng mình nghĩ lả lơi".(4)(****)

    Đến ngày 14 tháng 4 năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), triều vua Lý Cao Tôn, Sư cáo bệnh rồi mất. Đệ tử làm lễ hoả táng, thu linh cốt, xây tháp thờ tại cửa núi.


    _________________

    Chú thích :

    (1)
    Ý và chữ lấy từ câu nhận xét về Vô Nghiệp của Đạo Nhất. Khi Nhất lần đầu tiên gặp Nghiệp, thấy vóc dáng Nghiệp cao lớn. Tiếng nói như chuông, Nhất bảo: "Chùa Phật vòi vọi, mà trong không có Phật" (nguy nguy Phật đường, kỳ trung vô Phật). Xem Truyền đăng lục 8. Xem thêm chuyện Thân Tán, theo đó Tán, sau khi bỏ thầy mình đến học với Bách Trượng rồi trở về, thầy Tán hỏi: "Con bỏ chỗ ta đi rồi, giờ có được sự nghiệp gì không?" Tán đáp: "Không có sựnghiệp gì ráo", nên bị thầy sai hầu hạ.
    Một hôm ông bắt Tán tắm cho ông, Tán vỗ vào lưng ông nói: "Điện Phật đẹp mà Phật không thiêng". (Hảo sở Phật điện, nhi Phật bất thánh). Xem Truyền đăng lục.

    (2)
    Có người hỏi Tôn Triệt: "Tính địa nhiều u tối làm sao hiểu rõ?" Triệt đáp: "Mây nổi gió cuốn, bầu trời bỗng trong".

    (3)
    Trường Sinh hỏi Huyền Sa Sư Bị: "Hoà thượng có thấy rõ ràng chỗ thấy không ?" Bị đáp: "Biết nhau khắp thiên hạ" (Tương thức mãn thiên hạ).

    Thiền sư Kế Bằng thượng đường, chấp tay hỏi:

    "Biết nhau khắp thiên hạ,
    Tri âm được mấy người".

    (Tưởng thức mãn thiên hạ
    Tri âm năng kỷ nhân
    )

    Câu sau từ Ngũ đăng hội nguyên. Xem thêm câu hỏi trong truyện Diên Chiểu ở Truyền đăng lục 12 :

    Can mộc phụng Văn hầu
    Tri âm hữu kỷ nhân.


    (4)
    Ý và chữ của đoạn văn và bài kệ trên đây rút ra từ chương Ly cấu của phẩm Thập địa trong kinh Hoa nghiêm: "Bồ tát ư tự tư tài, thường tri chỉ túc, ư tha từ thứ, bất dục xâm tổn. Nhược vật thuộc tha, khởi tha vật tưởng, chung bất ư thử, nhi sanh đạo tâm. Nãi trí thảo diệp, bất dự bất thủ, hà huống kỳ dư, tư sinh chi cụ. Tính bất tà dâm. Bồ tát ư tự thê tri túc, bất cần tha thê. Ư tha thê thiếp tha sở hộ nữ, thân tộc môi định, cập vi pháp sở hộ, thượng bất sinh ư tham nhim chi tâm, hà huống tùng sự, huống ư phi đạo".(**)
    (Bồ tát đối với của cải mình, biết vừa đủ, đối với của người, thì thương yêu tha thứ, không muốn lấn hại. Nếu vật thuộc của người mình dấy lên cái ý tưởng là vật của người thì rốt cuộc không sinh lòng trộm cắp. Cho đến ngọn cỏ, lá cây, người không cho, mình không lấy, huống nữa là những vật dùng cho đời sống khác. Bồ tát biết đủ đối với vợ mình, mà không vợ người. Đối với thê thiếp của người, con gái do người bảo hộ, mình còn không móng lòng tham nhim, huống nữa là tùng sự dâm dục, huống nữa là nơi phi đạo). Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh

    ----------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)

    不因風卷浮雲盡,
    爭見青天萬里秋。


    Bất nhân phong quyển phù vân tận,
    Tranh kiến thanh thiên vạn lý thu?



    (**)

    相識滿天下,
    知音能幾人。


    Tương thức mãn thiên hạ,
    Tri âm năng kỷ nhân?


    (***)

    夫出家在家,止於知足。若能知足, 不侵人,內無損我。草葉微威制之細 彼所不與,我不當取。況他物屬他, 起他物想,終不於此而生盜心。乃至 妻妾,起他妻妾想,亦不於此而生淫

    - Phù xuất gia tại gia, chỉ ư tri túc, Nhược năng tri túc, ngoại bất xâm nhân, nội vô tổn ngã. Thảo diệp vi tế, bỉ sở bất dữ, ngã bất đương thủ. Huống tha vật thuộc tha, khởi tha vật tưởng, chung bất ư thử nhi sinh đạo tâm. Nãi chi tha thê thiếp, khởi tha thê thiếp tưởng, diệc bất ư thử nhi sinh dâm tâm.

    (****)

    菩薩資財知止足,
    於他慈恕不侵欲。
    草葉不與我不取,
    不想他物德如玉。
    菩薩自妻方知足,
    如何他妻起貪欲。
    於他妻妾他所護,
    安忍自心起心曲。


    Bồ tát tư tài tri chỉ túc,
    Ư tha từ thứ bất xâm dục.
    Thảo diệp bất dữ ngã bất thủ,
    Bất tưởng tha vật đức như ngọc.
    Bồ tác tự thê phương tri túc,
    Như hà tha thê khởi tham dục?
    Ư tha thê thiếp tha sở hộ,
    An nhẫn tự tâm khởi tâm khúc.


    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  2. The Following User Says Thank You to hungcom For This Useful Post:

    hoatihon (06-12-2015)

  3. #82
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    29. THIỀN SƯ Trường Nguyên (1110 - 1165)


    Chùa Sóc Thiên vương, núi Vệ linh, chợ Bình lỗ. Người Trường nguyên, Tiên du, họ Phan, giòng dõi Thích tử.
    Lúc đầu xuất gia, được Đạo Huệ chùa Quang minh ấn khả, bèn đi thẳng vào núi đó ẩn tu. Mặc áo cỏ, ăn hạt dẻ. Sư suốt ngày làm bạn với suối đá, khỉ, vượn. Trong 12 thời, Sư tôi luyện thân tâm, thuần nhất một mảnh, dùng để trì kinh. Trải 5, 6 năm, người ta chưa từng nom được bóng dáng. Vua Lý Anh Tôn nghe danh, ngưỡng mộ đạo hạnh của Sư, muốn gặp mà không thể được. Vua bèn sai bạn cũ của Sư là Phiên thần Lê Hối, đi dụ Sư về kinh đô, khi tới kinh, để Sư ở chùa Hương sát. Sư tự hối hận, trốn trở về, gọi môn đồ đến dạy rằng: "Hạng người thân khô lòng nguội, không phải để cho thế gian trá ngụy làm vật. Bởi vì chí hạnh của ta chưa được thuần phục, nên suýt nữa bị các thứ bẫy lồng vây khốn. Hãy nghe kệ ta đây:

    "Rừng xanh con nhỏ vượn ôm về (1)
    Hiền thánh ngàn xưa chẳng thể ghi,
    Oanh hót xuân về hoa nở rộ,
    Cúc cười thu đến dáng hình chi".

    Lại thường bảo mọi người: "Lạ thay ! Lạ thay ! Các chúng sinh đây, sao có đầy đủ trí tuệ của Như Lai mà ngu si, mê hoặc chẳng thấy, chẳng biết, ta thường đem đạo lý dạy dỗ khiến cho họ vĩnh viễn xa lìa vọng tưởng chấp trước để trong tự thân, mà thấy được trí tuệ rộng lớn của Như Lai, lợi ích an lạc". (*)

    Đến ngày mồng 7 tháng 6 năm Chính Long Bảo Ứng thứ 3 (1165), Sư nhuốm bệnh, nói kệ rằng:

    "Tại quang tại trần (2),
    Thường lìa quang trần,
    Lòng dạ trong vắt,
    Cùng vật không thân
    Thể ở tự nhiên,
    Ứng vật vô ngần,
    Lưỡng nghi trời đất,
    Đãi bỏ nhân luân
    Nuôi nấng vạn vật, (3)
    Cùng vật vui xuân,
    Làm múa gái sắt,
    Khua trống mộc nhân" (4)(**)

    Nói kệ xong, Sư hóa, thọ 56 tuổi


    ________________

    Chú thích :

    (1)
    Thiện Hội ở Giáp sơn, có người hỏi về cảnh Giáp sơn, đáp:

    Viên bảo tử quy thanh chướng lý
    Điểu hàm hoa lạc bích nham tiền


    (Vượn bồng con về trong núi xanh
    Chim ngậm hoa rơi trước hang biếc)


    (2)
    Những từ chủ yếu trong 4 câu này đều lấy từ chương 56 của Đạo đức kinh: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, toả kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hoà kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị huyền đồng, cố bất khả đắc nhi thân, bất khả đắc nhi sơ, bất khả đắc nhi lợi, bất khả đắc nhi hại, bất khả đắc nhi quí, bất khả đắc nhi tiện, cố vị thiên hạ vi" (Người biết không nói, người nói không biết, ngậm miệng lưỡi, bịt tai mắt, nhụt bén nhọn, bỏ chia phân, hoà ánh sáng, đồng bụi bậm, ấy gọi là huyền đồng cho nên không thể được mà thân, không thể được mà sơ, không thể được mà lợi, không thể được mà hại, không thể được mà sang, không thể được mà hèn, không nên thành vật quý của thiên hạ).

    (3)
    Những từ chủ yếu trong 6 câu đây lấy ra từ chương 51 của Đạo đức kinh, "Đạo sinh chi, đức súc chi ... trưởng chi, dụ chi, đình chi, dưỡng chi, phú chi..." (Đạo sinh đó, đức nuôi đó, ..., lớn đó, nắn đó, đúc đó, dưỡng đó, che đó).
    Xem thêm Biện mệnh luận của Lưu Tuấn trong Văn tuyển Lý Thiện chú 54 tờ7b13- 8a8: "Rằng sinh hết muôn vật thì gọi là đạo, sinh mà không có chủ thì gọi là tự nhiên, tự nhiên là vật thấy mình vậy mà không biết tại sao mình vậy ..., sinh ra, không có lòng nắn đúc, chết đi há có ý giết bỏ..." (Phù thông sinh vạn vật, tắc vị chi đạo, sinh nhi vô chủ, vị chi tự nhiên, tự nhiên giả, vật kiến kỳ nhiên, bất chi kỳ sở dĩ nhiên ...., sinh chi, vô đình độc chi tâm, tử chi, khỉ kiền lưu chi chí).

    (4)
    Gai sắt, người gỗ, Thiền gia dùng để mô tả diệu dụng của Thiền. Thiền sư Đông An Sát, Thập huyền đàm:

    "Mộc nhân dạ bán xuyên ngọa khứ
    Thạch nữ thiên minh đái mạo quy"

    (Người gỗ nửa đêm xỏ dép đi
    Sáng mai gái đá đội nón về)


    Xem thêm Cổ túc thập trí đồng chận vấn đáp:

    "Mộc nhân tuy bất ngữ
    Thạch nữ dẫn hồi đầu".


    (Người gỗ tuy không nói
    Gái đá hết ngoảnh đầu)


    ------------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)
    Đây là câu mà đức Phật Thích Ca bật thốt lên sau khi chứng quả Bồ Đề.


    (**)
    Tác vũ thiết nữ,
    Đả cổ mộc nhơn.


    Toàn bộ bài thơ kệ đa phần là tư tưởng Lão Trang, chỉ có 2 câu này là nói lên ý nghĩa "Vạn Pháp Hư Huyễn" của Giáo Lý Bát Nhã.

    Rất tiếc câu "Tác vũ thiết nữ" mà ông Lê Mạnh Thát dịch là "Làm múa gái sắt" tuy rất sát nghĩa, nhưng khiến hậu nhân đọc vào không hiểu gì hết.

    Nên chăng ta dịch lại là :

    Người gỗ đánh trống
    Gái sắt múa may.



    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  4. The Following User Says Thank You to hungcom For This Useful Post:

    hoatihon (06-12-2015)

  5. #83
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    30. THIỀN SƯ Tịnh Giới (? - 1207)

    Chùa Quốc thanh, núi Bí linh, phủ Nghệ an {Có chỗ chép chùa Quốc thanh, phủ Trường an}. Người Mão hương, Ngung giang, Lô hải, họ Chu, tên Hải Ngung
    Xuất thân hàn vi, nhưng tính tình thuần hậu. Lúc nhỏ theo học chữ Nho. Đến năm 26 tuổi Sư mang bệnh mộng thấy thiên thần cho thuốc, tỉnh giấc bệnh lành ngay. Sư bèn quyết chí xuất gia, đến ở với một vị kỳ túc trong làng, dần thọ được giới Cụ túc, chuyên thực hành giới luật. Nghe nói Lãng sơn thanh vắng, có thể ở được, Sư xách gậy đi về phương Đông. Trải 7 năm tham học, Sư gặp Bảo Giác chùa Viên minh qua một câu nói, Sư liền khai ngộ. Tháng 10 năm Quý tỵ Chánh Long Bảo Ứng (1173), lúc Bảo Giác sắp tịch, gọi Sư đến dạy: "Sanh, già, bệnh, chết, đời thường là thế, há ta riêng khỏi?"

    Sư hỏi: "Hôm nay Tôn đức thế nào?"
    Bảo Giác gật đầu mỉm cười, nói bài kệ rằng:

    "Muôn pháp về không chẳng chỗ vin
    Chân như vắng lặng trước mắt duyên,
    Lòng viên ngộ được không cần chỉ
    Nước lặng trăng lòng dứt mọi xen"
    . (1)(*)

    Nói kệ xong, Bảo Giác truyền Pháp cụ (**) cho Sư. Từ đấy, Sư tùy phương giáo hóa, dần dần đến chùa Quốc thanh, dừng lại ở đó cấm túc 6 năm, tu hạnh đầu đà, nên hàng long phục hổ, cảm hóa chư thần. Châu mục Phạm Từ nghe Sư danh đức, càng thêm lễ chuộng, xin Sư cho đúc một quả hồng chung để trấn cửa núi.
    Mùa hè năm Trinh Phù thứ2 (1177), gặp hạn, vua ban chiếu cho danh tăng khắp thiên hạ cầu mưa, nhưng không ứng nghiệm. Vua Lý Cao Tôn, lâu nghe danh Sư, sai sư đón về chùa Báo thiên ở kinh đô. Nửa đêm, Sư đứng giữa sân đốt hương, trời bèn mưa xuống. Vua rất khen sủng, thường gọi là Thầy mưa(2). Nhân đó triệu vào tiện điện, hỏi các pháp yếu, ban thưởng rất hậu.

    {Tục truyền Sư xuất gia lúc tuổi Đinh tráng, thiếu thuế nạp quan. Bà chị Chu Thị hàng năm thay Sư nạp thuế. Sư mỗi khi nghĩ tới, vẫn không có cách miễn được. Lúc nghe triều đình xuống chiếu cầu mưa, bèn lén về nhà chị, bí mật khiến đào một cái ao trong vườn sâu sau nhà. Đêm đến, đốt hương đứng cầu. Chốc lát, mưa xuống chỉ ở trong vườn đó. Quan sở tại đem chuyện kinh lạ tâu về triều đình. Vua rất vui, sai sứ đón về chùa Báo thiên ở kinh sư. Đúng trong đêm đó, quả mưa xối xả. Bèn được độ làm Sư, lại được làm hợp lệ sổ thuế cho cả họ} Năm Trinh Phù thứ 4 (1174), chùa Chân giáo, núi Vạn bảo làm thành, vua cho mời các bậc kỳ túc, đến làm lễ khánh tán. Sư vâng chiếu vào triều, ngụ tại gác Lâm tiêu. Bây giờ trời bắt đầu mưa ròng rã, đường sá lầy lội, phương hại đến việc lễ hội, Sư khấn, liền tạnh. Hội xong 7 ngày thì trời lại mưa như xưa. Sau Sư trở về làng cũ trùng tu chùa Quảng thánh và quyên tiền đúc chuông. Trong khi đốt lò thì mây kéo đến muốn mưa, Sư đứng giữa sân, dộng gậy trừng mắt giây lát, trời lại quang tạnh. Sau này, trải bao binh lửa, nhưng chuông Sư đúc đến nay vẫn còn. Rồi Sư trở về chùa cũ dạy dỗ học trò.

    Có vị Tăng hỏi Sư về Phật lý, Sư đáp: "Chính ta và ngươi ".
    Lại thường nói: "Tâm là tính nên nói Như Lai tạng, tâm tức tính nên tự tính tâm là thanh tịnh".
    Ngày mồng 7 tháng 7 năm Trịnh Bình Long Ứng thứ 3 (1207), lúc sắp thị tịch, Sư nói kệ sau:

    "Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
    Chỉ bỏi như kia đạo táng tâm
    Sau giống Tử Kỳ đa sầu cảm
    Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm".
    (***)

    Lại nói:

    "Ngực áo thu về khí lạnh xâm
    Tài ngang tám đấu đối trăng ngâm
    Cười bấy khách thiền ai dại dột
    Sao đem lời lẽ để truyền tâm".
    (3)(****)

    Nói xong, Sư ngồi kiết già mà mất. {Truyện này đại khái cùng Quốc sử và Bia văn không giống, nay xin khảo chính lại}



    ___________________

    Chú thích :

    (1)

    Vạn pháp quy không vô sở y
    Quy tịch chơn như mục tiền ky
    Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ
    Thủy băng tâm nguyệt mẫn tâm nghi.


    Câu 2 theo luật thơ phải là "Chân như quy tịch mục tiền ky". Còn chữ"nghi" trong câu 4 nguyên đọc là nghĩa. Nhưng chữ nghĩa cũng đọc là nghi. và nghi cũng có nghĩa là "hướng đến", nên "mẫn tâm nghi" chúng tôi dịch là "đứt mọi xen", tức dứt mọi thú hướng của tâm.
    Tư tưởng "vạn pháp qui không" là một tư tưởng lớn và căn bản của những trường phái Đại thừa Phật giáo. Nhưng chữ Không đó có nghĩa gì thì mọi trường phái giải thích khác nhau. Nó cũng trở thành công án của thiền.
    Phúc Khê có người hỏi: "Duyên tán qui không, không qui hà sở?". Sư đáp: "Ta". "Mục tiền ky" là cơ duyên trước mắt, thuật ngữ lấy bài kệ Lăng hành bà gởi Triệu Châu trong Truyền đăng lục

    Khốc thanh sư dĩ hiểu
    Dĩ hiểu phục thùy tri
    Đương thì Ma kiệt quốc
    Kỷ táng mục tiền ky

    (2)
    Truyện Nhị Trưng phu nhân trong Việt điện u linh tập tờ 11 có đoạn nói về chuyện Tịnh Giới cầu mưa này, nhưng lại bảo nó xảy dưới thời Lý Anh Tôn. Truyện đó viết: "Lý Anh Tôn, nhân có hạn, sai Thiền sư Tịnh Giới cầu mưa, chốc lát thì được mưa, khí mát thấm người. Vua mừng đến xem, bỗng thấy buồn ngủ, mộng thấy hai người con gái mặt hoa mày liễu, áo xanh quần đỏ, mũ đỏ mang đai, cỡi ngựa sắt mà đến gặp. Vua lấy làm lạ hỏi thì họ đáp: "Thiếp là hai chị em họ Trưng, vâng lệnh Thượng đế đến làm mưa". Vua thức dậy, cảm động, sai sửa lại đền miếu, sắm đủ lễ để đến tế, sau rồi sai nghênh về phía bắc thành trong đại nội, dựng đền Vũ sư để thờ. Sau thác mộng cho vua xin lập đền thờ ở xã Cổ lai, vua nghe theo, sắc phong là Trinh Linh phu nhân".
    Truyện Tịnh Giới ở đây nói Giới cầu mưa vào Trinh Phù thứ 2 (1177). Nhưng cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi một lần hạn nào cả cho đến 1188. Năm đấy, Toàn thư B4 tờ 19b9-220a1 nói: "Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 3, mùa hạ tháng 5 hạn, vua thân hành đến chùa Pháp vân ở Luy bà (bà, nghi là viết sai của chữ lâu. (L.M.Thát chú) cầu mưa, nhân đó nghênh tượng Phật Pháp vân về chùa Báo thiên. Như vậy, phải chăng chuyện cầu mưa Tịnh Giới thực sự bắt đầu dưới thời Lý Anh Tôn? Chúng tôi nghĩ đây là một có thể, bởi vì cứ Đại Việt sửlược3 tờ7b9 thì "năm Chính Long Bảo Ứng thứ 10 (1172) mùa đông, dựng đền Trinh Linh phu nhân ở ngoài cầu Tây dương." Mà danh hiệu Trinh Linh phu nhân, cứ truyện Nhị Trưng phu nhân dẫn trên, là do Lý Anh Tôn phong. Hơn nữa, vì đền này xây ở"ngoài cầu Tây dương", nó chắc phải xảy ra sau khi việc cầu mưa của Tịnh Giới thành công khoảng một thời gian vài ba năm, bởi vì đền nguyên nằm trong Đại nội ở tại đền Vũ sư. Trong vòng 10 năm đầu hơn của Lý Anh Tôn, năm lần hạn đã xảy ra, khoảng cách cứ hai năm một lần. Và những lần hạn
    này lại kéo dài thường từ ba đến sáu tháng. Với những cơn hạn kiểu đó, mới có việc "vua ban chiếu cho danh tăng khắp trong thiên hạ cầu mưa" như truyện Tịnh Giới đã ghi. Ngoài ra, Tịnh Giới tham gia việc cầu mưa theo tục truyền, như chính truyện đã viết, là để hợp thức hoá số thuế của Giới, mà "người chị Giới là Chu Thị thường năm thay Giới nạp thuế". Với một mục đích đấy, Giới tất tìm cách thực hiện khi có dịp. Do thế, không phải là không có lý, khi nói Tịnh Giới có cầu mưa dưới thời Lý Anh Tôn, như Việt điện u linh tập đã có.
    Tuy nhiên, bởi vì Giới xuất gia năm 26 và mất vài ba năm ở chùa làng mình cùng 7 năm sống ở Lãng Sơn và 6 năm tu hạnh đầu đà ở chùa Quốc thanh. Ta có thể chắc chắn là khi hành đạo Giới lúc bấy giờ cũng phải ít nhất trên 40 tuổi. Mà Giới lại mất năm 1207, nên giả sử Giới có sống trên 90 tuổi đi nữa, thì việc cầu đảo của Giới cùng lắm phải xảy ra bắt đầu từ những năm 1160 trở đi mà thôi. Nói cách khác, truyện Tịnh Giới ở đây, nói Giới cầu mưa vào khoảng Trinh Phù không phải là hoàn toàn vô
    căn cứ.

    (3)
    Kiến văn tiểu lục 4 tờ13b6-8 chép:

    Thu lai lương khí giáp khâm trung
    Bắt đẩu tài cao hướng nguyệt ngâm
    Kham tiếu thiền gia si độn khách
    Vị tương hà ngữ dĩ truyền tâm.


    -------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)

    萬法歸空無所依,
    歸寂真如目前機。
    達悟心圓無所指,
    水水心月泯心儀。


    Vạn pháp quy không, vô sở y,
    Quy tịch, chân như mục tiền ky.
    Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ,
    Thuỷ thuỷ tâm nguyệt dẫn tâm nghi.



    (**)
    Cụm từ "Pháp cụ" ở đây không phải là cụ túc giới (vì sư đã thọ cụ túc giới rồi) mà là một vật gì khác, thí dụ như Y, bát, chuông, khánh, chuỗi hạt, .......


    (***)
    Bài này :
    "Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
    Chỉ bỏi như kia đạo táng tâm
    Sau giống Tử Kỳ đa sầu cảm
    Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm".


    Có lẻ do gõ sai, căn cứ vào nguyên tác bên dưới, nên chăng sửa lại là :

    "Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
    Chỉ bởi như kia đạo táng tâm
    Sao giống Tử Kỳ đa sầu cảm ?!
    Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm".



    此時說道罕知音,
    只為如斯道喪心。
    奚似子期多爽慘,
    聽來一達伯牙琴。


    Thử thời thuyết đạo hãn tri âm,
    Chỉ vị như tư đạo táng tâm.
    Hề tự Tử Kỳ đa sảng sẩm,
    Thính lai nhất đạt Bá Nha cầm.



    (****)

    秋來涼氣爽胸襟,
    八斗才高對月吟。
    堪笑禪家癡鈍客,
    為何將語以傳心。


    Thu lai lương khí sảng hung khâm,
    Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm.
    Kham tiếu thiền gia si độn khách,
    Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm.


    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  6. The Following User Says Thank You to hungcom For This Useful Post:

    hoatihon (06-12-2015)

  7. #84
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Vạn pháp quy không




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  8. #85
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Nỗi buồn Mạt pháp





    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  9. #86
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Biết nói gì .....?





    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  10. #87
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    31. THIỀN SƯ Giác Hải


    Chùa Diên phúc, Hải thanh, người Hải thanh, họ Nguyễn, nhỏ thích đánh cá đi câu, thường dùng một chiếc thuyền con làm nhà, sống lênh đênh khắp sông biển. Năm 25 tuổi, Sư bỏ nghề, xuống tóc làm Tăng.
    Ban đầu, Sư và Không Lộ cùng thờ Hà Trạch. Sau Sư lại kế thừa dòng pháp của Không Lộ.
    Đời vua Lý Nhân Tông, Sư thường cùng Thông Huyền chân nhân, bị triệu vào nhà hóng mát Liên manh hầu hạ, bỗng có tiếng cắc kè kêu nhau chối tai, đáng ghét. Vua khiến Huyền làm cho nó đừng kêu. Huyền bèn lâm râm niệm chú, làm rơi trước một con. Huyền cười Sư, Sư bảo "Đang còn một con, để đó cho Sa Môn". Sư chú mục nhìn, trong giây lát, nó cũng rơi theo. Vua lấy làm lạ, làm một bài thơ khen:

    "Giác Hải tâm như hải
    Thông Huyền đạo lại huyền
    Thần thông cùng biến hóa
    Một Phật, một thần tiên"
    (1)

    Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp thiên hạ, Tăng tục ngưỡng chuộng. Vua thường đối đãi Sư như bậc thầy. Mỗi lần ra chơi hành cung Hải thanh, vua tất đến chùa Sư trước. Một hôm, vua hỏi Sư: "Phép ứng chân thần túc, có thể được nghe chăng? Sư bèn làm tám phép thần biến rồi vung thân lên hư không, cách đất vài trượng rồi lại hạ xuống. Vua và các quan đều vỗ tay khen ngợi. Do đó, vua ban cho Sư một kiệu vai, để ra vào cửa khuyết.
    Đến đời Thần Tôn, nhiều lần triệu vào, nhưng Sư từ chối, viện cớ già bệnh mà không tới.
    Có vị Tăng hỏi:
    "Phật và chúng sanh ai khách, ai chủ?".
    Sư dùng bài kệ đáp:

    "Gái tơ chỏm tóc bạc (2)
    Báo ngươi tác giả biết
    Nếu hỏi cảnh giới Phật
    Long môn gặp điểm trán".
    (3)(*)

    Lúc sắp tịch, Sư gọi chúng đến dạy kệ :

    "Xuân đến bướm hoa khéo biết thì,
    Cần nhau hoa bướm biết nhau khi
    Bướm hoa vốn thảy đều hư huyễn
    Chớ đem hoa bướm giữ lòng chi".
    (**)

    Đêm ấy có ngôi sao lớn rớt ngay góc Đông nam phương trượng của Sư. Nói xong, Sư ngồi ngay ngắn mà mất (4). Vua xuống chiếu cho thuế 30 hộ để cúng hương hỏa và cho hai người con của Sư làm quan để tỏ lòng khen thưởng (5)


    ________________

    Chú thích :

    (1)
    Nam ông mộng lục tờ 9 dưới mục " Tăng đạo thần thông" chép y chuyện này. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a5-6 chép nguyên lại bài thơ.

    (2)
    A giác nữ đầu bạch người con gái còn để chỏm mà đầu đã bạc. Thiền sư Đầu Tứ Đại Đồng được hỏi:"Hoà thượng sống ở đây có cảnh giới gì?", Sư đáp: "A giác nữ bạch đầu ty" (Người con gái còn để hai chỏm tóc, nhưng đầu đã bạc như tơ).

    (3)
    Long môn tào điểm ngạch. Tháng 3 cá chép vượt cửa Rồng để thành rồng, nếu không vượt nổi thì bị chấm trên trán mà trở về. Linh Thứu Nhàn thiền sư, có Hoà thượng Minh Thủy hỏi: "Thế nào là mau được pháp thân?". Sư đáp:

    "Nhất thấu Long môn vân ngoại vọng
    Mạc tác Hoàng hà điểm ngạch ngư".


    (Một khi đã tới cửa rồng, ngó trời ngoài mây
    Thì chớ làm cá sông Hoàng hà bị chấm trên trán)


    Long môn là một tên đất tại tỉnh Tứ xuyên ở Trung quốc, ở đấy có cái vực rất to ăn thông với sông Dương tử. Tương truyền ở đó có cái ao tên Vũ môn. Tục truyền hễ đến tháng 7 nước to, cá chép các nơi kéo về đua nhau nhảy qua cửa đáy. Con nào nhảy qua thì hóa thành rồng. Con nào không thì bị một chấm trên trán, mà trở về. Ở nước ta, theo Kiến văn tiểu lục 6 tờ 13b4-7 thì Long môn ở tại đất những động Dĩ lý và Hào trang của Mộc châu, ở đấy "có một ngọn núi ở trung lưu sông Đà, đá lớn
    lộn xộn, mỗi năm đến ngày 8 tháng 4, các bầy cá bơi ngược dòng mà lên, nhưng chỉ cá chép một hai con thì có thể được. Giao châu ký nói: có Long môn, nước sâu trăm tầm, cá lớn lên đó thì hoá thành rồng".

    (4)
    An nam chí nguyên 3 tờ 211 viết: "Thiền sư Giác Hải là Sư huyện Giao thủy, thần thông rộng lớn, biến hóa như thần. Khi sắp thị tịch, có sao hỏa rơi vào Thái thất. Đến sáng, Sư mất". Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16b8.

    (5)
    Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 36 chép nguyên truyện Giác Hải ở đây với một vài sai lầm chính tả và thiếu sót do sao lục, nhưng không quan trọng. Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục do "Đạo nhân Quán tam thanh" thêm vào trong Việt điện u linh tập tờ48-51 chép chuyện Giác Hải ké với Từ Đạo Hạnh và Minh Không, song cũng không có gì đặc sắc đáng nói cả. Nó chỉ điển hình cho tình trạng thất truyền của cuộc đời Giác Hải mà thôi. Cái ghi chú của An nam chí lược 15 tờ 147 về"hai thầy Không Lộ và Giác Hải thường vào Đại quốc xin đồng về đúc chuông" hai cái để tại chùa núi Phổ lại, và việc "Giác Hải giỏi lặn dưới nước" cũng không thêm gì hơn là giúp ta xác định niên đại những truyền thuyết thần kỳ về những vị sư này.


    ---------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)

    不覺女頭白,
    報你作者識。
    若問佛境界,
    龍門遭點額。


    Bất giác nữ đầu bạch,
    Báo nhĩ tác giả thức.
    Nhược vấn Phật cảnh giới,
    Long môn tạo điểm ngạch.



    (**)

    春來花蝶善知時,
    花蝶應須共應期。
    花蝶本來皆是幻,
    莫須花蝶向心持。


    Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
    Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
    Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
    Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.


    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  11. #88
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    Vấn Phật cảnh giới




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  12. #89
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Mặc bướm, mặc hoa.





    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  13. #90
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    32. THIỀN SƯ Nguyện Học (1)(?- 1181)


    Chùa Quảng báo, làng Chân hộ, Như nguyệt, người Phù cẩm, họ Nguyễn. Thuở nhỏ Sư thọ pháp với Viên Trí chùa Mật nghiêm. Khi được yếu chỉ, trước tiên Sư đến ẩn ở núi Vệ linh, chuyên tu phạm hạnh trải 12 năm. Mỗi khi nhập thiền quán đến 3 ngày mới dậy. Sư thường trì Hương hải đại bi đà la ni, nên việc cầu mưa, trị bệnh, không việc gì là không hiệu nghiệm tức khắc.
    Vua Lý Anh Tôn, thấy các điều thần hiệu của Sư, ban chiếu cho vào ra cung cấm, để dùng chú chữa bệnh.
    Sau Sư cáo lão về trụ trì chùa Quảng Báo. Môn đồ không dưới 100 người. Đến ngày 11 tháng 6 năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 (1175), lúc sắp thị tịch Sư gọi chúng đến dạy:

    Đạo không hình tượng
    Trước mắt chẳng xa,
    Xoay lại tìm kiếm,
    Chớ cầu người ta
    Dẫu cho cầu được
    (2)
    Được chẳng thật đâu,
    Ví có được thật
    Thật đó vật nào?
    Vì thế chư Phật ba đời
    Lịch đại sư tổ
    Ấn thọ tâm truyền
    Cũng nói thế cả.
    (*)

    Hãy nghe ta nói kệ:

    "Rõ hiểu thân, tâm mắt tuệ khơi
    Linh thông biến hoá, hiện thật tướng
    Ngồi, nằm, đi, đứng riêng siêu nhiên
    Ứng hiện hoá thân chẳng thể lượng.
    Hư không đầy dẫy tuy lấp khắp,
    Xem qua chẳng thấy như có bóng
    Thế gian không vật hay kịp sánh
    Mãi hiện ảnh thiêng sáng rạch ròi
    Thời thường dạy dỗ bất tư nghị
    Không được một câu đáng làm lời"
    (3)(**)

    Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất.

    __________________

    Chú thích :

    (1)
    An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: "Thiền sư Nguyện Học là sư châu Vũ ninh. Trong lúc tập thiền định, thân như cây khô, vật và ta đều quên, cho nên chim bay đến châu, thú rừng lẩn quẩn, nhất loạt như vật nuôi trong nhà. Tùy Cao Tổ sai sứ xây tháp cúng dường". Nhưng rõ ràng đấy là văn cú lấy trong truyện Pháp Hiền. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ16b1 cũng chép Pháp Hiền như thế. Nhưng trước Pháp Hiền nó ghi lại ở tờ 16a12 những mô tả về Nguyện Học và viết: "Thiền sư Nguyện Học là Sư
    châu Vũ ninh, siêng tu phạm hạnh, mỗi khi vào thiền quán, nhiều ngày mới đứng dậy, đến chết thì ngồi kiết già mà mất". Do thế, những gì viết về Nguyện Học của bản in An nam chí nguyên ngày nay là lấy từ Pháp Hiền, do việc chép nhảy hàng gây ra, bởi vì cả Học lẫn Hiền đều nói là "sư châu Vũ ninh", nên sau những chữ ấy, đúng ra người viết phải chép tiếp những mô tả về Học, nhưng đã nhảy hàng và chép thay vào, những mô tả về Pháp Hiền.

    (2)
    Ý lấy từ Bài kệ thị chúng của Huệ Tư :

    Đạo nguyên bất viễn
    Tánh hải phi diêu
    Đản hướng kỷ cầu
    Mạc tùng tha mích
    Mích tức bất đắc
    Đắc diệt phi chân.


    (Nguồn đạo không ngại
    Bể tính chẳng xa
    Chỉ nhắm mình tìm
    Chớ tìm ở người
    Tìm tức không được
    Được cũng chẳng chân)


    (3)
    Thiền sư Huệ Tư. Kệ viết:

    Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
    Án hiện linh thông hiện chư tướng
    Độc hành độc toạ thường nguy nguy
    Bách ức hoá thân vô số lượng
    Tung hiệp bức tắc mãn hư không
    Khán thời bất biến vi trần tướng
    Khả tiêu vật hề vô tỷ huống
    Khấu thể minh châu quang hoảng hoảng
    Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
    Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.


    ------------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)

    道無影像,
    觸目非遙。
    自反推求,
    莫求他得。
    縱饒求得,
    得即不真。
    設使得真,
    真是何物?


    Đạo vô ảnh tượng,
    Xúc mục phi dao.
    Tự phản suy cầu,
    Mạc cầu tha đắc.
    Túng nhiêu cầu đắc,
    Đắc tức bất chân.
    Thiết sử đắc chân,
    Chân thị hà vật ?



    (**)

    了悟身心開慧眼,
    變化靈通現實相。
    行住坐臥獨卓然,
    應現化身不可量。
    雖然充塞遍虛空,
    歡來不見如有相。
    世間無物可比況,
    長現靈光明朗朗。
    嘗時演說不思議,
    無得一言以為當。


    Liễu ngộ thân tâm khai tuệ nhãn,
    Biến hoá linh thông hiện thực tướng.
    Hành, trụ, toạ, ngoạ độc trác nhiên,
    Ứng hiện hoá thân bất khả lượng.
    Tuy nhiên sung tắc biến hư không,
    Hoan lai bất kiến như hữu tướng.
    Thế gian vô vật khả tỷ huống,
    Trường hiện linh quang minh lãng lãng.
    Thường thời diễn thuyết bất tư nghị,
    Vô đắc nhất ngôn dĩ vi đáng.


    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •