DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 160
  1. #11
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    30. THIỀN SƯ Tịnh Giới (? - 1207)

    Chùa Quốc thanh, núi Bí linh, phủ Nghệ an {Có chỗ chép chùa Quốc thanh, phủ Trường an}. Người Mão hương, Ngung giang, Lô hải, họ Chu, tên Hải Ngung
    Xuất thân hàn vi, nhưng tính tình thuần hậu. Lúc nhỏ theo học chữ Nho. Đến năm 26 tuổi Sư mang bệnh mộng thấy thiên thần cho thuốc, tỉnh giấc bệnh lành ngay. Sư bèn quyết chí xuất gia, đến ở với một vị kỳ túc trong làng, dần thọ được giới Cụ túc, chuyên thực hành giới luật. Nghe nói Lãng sơn thanh vắng, có thể ở được, Sư xách gậy đi về phương Đông. Trải 7 năm tham học, Sư gặp Bảo Giác chùa Viên minh qua một câu nói, Sư liền khai ngộ. Tháng 10 năm Quý tỵ Chánh Long Bảo Ứng (1173), lúc Bảo Giác sắp tịch, gọi Sư đến dạy: "Sanh, già, bệnh, chết, đời thường là thế, há ta riêng khỏi?"

    Sư hỏi: "Hôm nay Tôn đức thế nào?"
    Bảo Giác gật đầu mỉm cười, nói bài kệ rằng:

    "Muôn pháp về không chẳng chỗ vin
    Chân như vắng lặng trước mắt duyên,
    Lòng viên ngộ được không cần chỉ
    Nước lặng trăng lòng dứt mọi xen"
    . (1)(*)

    Nói kệ xong, Bảo Giác truyền Pháp cụ (**) cho Sư. Từ đấy, Sư tùy phương giáo hóa, dần dần đến chùa Quốc thanh, dừng lại ở đó cấm túc 6 năm, tu hạnh đầu đà, nên hàng long phục hổ, cảm hóa chư thần. Châu mục Phạm Từ nghe Sư danh đức, càng thêm lễ chuộng, xin Sư cho đúc một quả hồng chung để trấn cửa núi.
    Mùa hè năm Trinh Phù thứ2 (1177), gặp hạn, vua ban chiếu cho danh tăng khắp thiên hạ cầu mưa, nhưng không ứng nghiệm. Vua Lý Cao Tôn, lâu nghe danh Sư, sai sư đón về chùa Báo thiên ở kinh đô. Nửa đêm, Sư đứng giữa sân đốt hương, trời bèn mưa xuống. Vua rất khen sủng, thường gọi là Thầy mưa(2). Nhân đó triệu vào tiện điện, hỏi các pháp yếu, ban thưởng rất hậu.

    {Tục truyền Sư xuất gia lúc tuổi Đinh tráng, thiếu thuế nạp quan. Bà chị Chu Thị hàng năm thay Sư nạp thuế. Sư mỗi khi nghĩ tới, vẫn không có cách miễn được. Lúc nghe triều đình xuống chiếu cầu mưa, bèn lén về nhà chị, bí mật khiến đào một cái ao trong vườn sâu sau nhà. Đêm đến, đốt hương đứng cầu. Chốc lát, mưa xuống chỉ ở trong vườn đó. Quan sở tại đem chuyện kinh lạ tâu về triều đình. Vua rất vui, sai sứ đón về chùa Báo thiên ở kinh sư. Đúng trong đêm đó, quả mưa xối xả. Bèn được độ làm Sư, lại được làm hợp lệ sổ thuế cho cả họ} Năm Trinh Phù thứ 4 (1174), chùa Chân giáo, núi Vạn bảo làm thành, vua cho mời các bậc kỳ túc, đến làm lễ khánh tán. Sư vâng chiếu vào triều, ngụ tại gác Lâm tiêu. Bây giờ trời bắt đầu mưa ròng rã, đường sá lầy lội, phương hại đến việc lễ hội, Sư khấn, liền tạnh. Hội xong 7 ngày thì trời lại mưa như xưa. Sau Sư trở về làng cũ trùng tu chùa Quảng thánh và quyên tiền đúc chuông. Trong khi đốt lò thì mây kéo đến muốn mưa, Sư đứng giữa sân, dộng gậy trừng mắt giây lát, trời lại quang tạnh. Sau này, trải bao binh lửa, nhưng chuông Sư đúc đến nay vẫn còn. Rồi Sư trở về chùa cũ dạy dỗ học trò.

    Có vị Tăng hỏi Sư về Phật lý, Sư đáp: "Chính ta và ngươi ".
    Lại thường nói: "Tâm là tính nên nói Như Lai tạng, tâm tức tính nên tự tính tâm là thanh tịnh".
    Ngày mồng 7 tháng 7 năm Trịnh Bình Long Ứng thứ 3 (1207), lúc sắp thị tịch, Sư nói kệ sau:

    "Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
    Chỉ bỏi như kia đạo táng tâm
    Sau giống Tử Kỳ đa sầu cảm
    Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm".
    (***)

    Lại nói:

    "Ngực áo thu về khí lạnh xâm
    Tài ngang tám đấu đối trăng ngâm
    Cười bấy khách thiền ai dại dột
    Sao đem lời lẽ để truyền tâm".
    (3)(****)

    Nói xong, Sư ngồi kiết già mà mất. {Truyện này đại khái cùng Quốc sử và Bia văn không giống, nay xin khảo chính lại}



    ___________________

    Chú thích :

    (1)

    Vạn pháp quy không vô sở y
    Quy tịch chơn như mục tiền ky
    Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ
    Thủy băng tâm nguyệt mẫn tâm nghi.


    Câu 2 theo luật thơ phải là "Chân như quy tịch mục tiền ky". Còn chữ"nghi" trong câu 4 nguyên đọc là nghĩa. Nhưng chữ nghĩa cũng đọc là nghi. và nghi cũng có nghĩa là "hướng đến", nên "mẫn tâm nghi" chúng tôi dịch là "đứt mọi xen", tức dứt mọi thú hướng của tâm.
    Tư tưởng "vạn pháp qui không" là một tư tưởng lớn và căn bản của những trường phái Đại thừa Phật giáo. Nhưng chữ Không đó có nghĩa gì thì mọi trường phái giải thích khác nhau. Nó cũng trở thành công án của thiền.
    Phúc Khê có người hỏi: "Duyên tán qui không, không qui hà sở?". Sư đáp: "Ta". "Mục tiền ky" là cơ duyên trước mắt, thuật ngữ lấy bài kệ Lăng hành bà gởi Triệu Châu trong Truyền đăng lục

    Khốc thanh sư dĩ hiểu
    Dĩ hiểu phục thùy tri
    Đương thì Ma kiệt quốc
    Kỷ táng mục tiền ky

    (2)
    Truyện Nhị Trưng phu nhân trong Việt điện u linh tập tờ 11 có đoạn nói về chuyện Tịnh Giới cầu mưa này, nhưng lại bảo nó xảy dưới thời Lý Anh Tôn. Truyện đó viết: "Lý Anh Tôn, nhân có hạn, sai Thiền sư Tịnh Giới cầu mưa, chốc lát thì được mưa, khí mát thấm người. Vua mừng đến xem, bỗng thấy buồn ngủ, mộng thấy hai người con gái mặt hoa mày liễu, áo xanh quần đỏ, mũ đỏ mang đai, cỡi ngựa sắt mà đến gặp. Vua lấy làm lạ hỏi thì họ đáp: "Thiếp là hai chị em họ Trưng, vâng lệnh Thượng đế đến làm mưa". Vua thức dậy, cảm động, sai sửa lại đền miếu, sắm đủ lễ để đến tế, sau rồi sai nghênh về phía bắc thành trong đại nội, dựng đền Vũ sư để thờ. Sau thác mộng cho vua xin lập đền thờ ở xã Cổ lai, vua nghe theo, sắc phong là Trinh Linh phu nhân".
    Truyện Tịnh Giới ở đây nói Giới cầu mưa vào Trinh Phù thứ 2 (1177). Nhưng cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi một lần hạn nào cả cho đến 1188. Năm đấy, Toàn thư B4 tờ 19b9-220a1 nói: "Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 3, mùa hạ tháng 5 hạn, vua thân hành đến chùa Pháp vân ở Luy bà (bà, nghi là viết sai của chữ lâu. (L.M.Thát chú) cầu mưa, nhân đó nghênh tượng Phật Pháp vân về chùa Báo thiên. Như vậy, phải chăng chuyện cầu mưa Tịnh Giới thực sự bắt đầu dưới thời Lý Anh Tôn? Chúng tôi nghĩ đây là một có thể, bởi vì cứ Đại Việt sửlược3 tờ7b9 thì "năm Chính Long Bảo Ứng thứ 10 (1172) mùa đông, dựng đền Trinh Linh phu nhân ở ngoài cầu Tây dương." Mà danh hiệu Trinh Linh phu nhân, cứ truyện Nhị Trưng phu nhân dẫn trên, là do Lý Anh Tôn phong. Hơn nữa, vì đền này xây ở"ngoài cầu Tây dương", nó chắc phải xảy ra sau khi việc cầu mưa của Tịnh Giới thành công khoảng một thời gian vài ba năm, bởi vì đền nguyên nằm trong Đại nội ở tại đền Vũ sư. Trong vòng 10 năm đầu hơn của Lý Anh Tôn, năm lần hạn đã xảy ra, khoảng cách cứ hai năm một lần. Và những lần hạn
    này lại kéo dài thường từ ba đến sáu tháng. Với những cơn hạn kiểu đó, mới có việc "vua ban chiếu cho danh tăng khắp trong thiên hạ cầu mưa" như truyện Tịnh Giới đã ghi. Ngoài ra, Tịnh Giới tham gia việc cầu mưa theo tục truyền, như chính truyện đã viết, là để hợp thức hoá số thuế của Giới, mà "người chị Giới là Chu Thị thường năm thay Giới nạp thuế". Với một mục đích đấy, Giới tất tìm cách thực hiện khi có dịp. Do thế, không phải là không có lý, khi nói Tịnh Giới có cầu mưa dưới thời Lý Anh Tôn, như Việt điện u linh tập đã có.
    Tuy nhiên, bởi vì Giới xuất gia năm 26 và mất vài ba năm ở chùa làng mình cùng 7 năm sống ở Lãng Sơn và 6 năm tu hạnh đầu đà ở chùa Quốc thanh. Ta có thể chắc chắn là khi hành đạo Giới lúc bấy giờ cũng phải ít nhất trên 40 tuổi. Mà Giới lại mất năm 1207, nên giả sử Giới có sống trên 90 tuổi đi nữa, thì việc cầu đảo của Giới cùng lắm phải xảy ra bắt đầu từ những năm 1160 trở đi mà thôi. Nói cách khác, truyện Tịnh Giới ở đây, nói Giới cầu mưa vào khoảng Trinh Phù không phải là hoàn toàn vô
    căn cứ.

    (3)
    Kiến văn tiểu lục 4 tờ13b6-8 chép:

    Thu lai lương khí giáp khâm trung
    Bắt đẩu tài cao hướng nguyệt ngâm
    Kham tiếu thiền gia si độn khách
    Vị tương hà ngữ dĩ truyền tâm.


    -------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)

    萬法歸空無所依,
    歸寂真如目前機。
    達悟心圓無所指,
    水水心月泯心儀。


    Vạn pháp quy không, vô sở y,
    Quy tịch, chân như mục tiền ky.
    Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ,
    Thuỷ thuỷ tâm nguyệt dẫn tâm nghi.



    (**)
    Cụm từ "Pháp cụ" ở đây không phải là cụ túc giới (vì sư đã thọ cụ túc giới rồi) mà là một vật gì khác, thí dụ như Y, bát, chuông, khánh, chuỗi hạt, .......


    (***)
    Bài này :
    "Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
    Chỉ bỏi như kia đạo táng tâm
    Sau giống Tử Kỳ đa sầu cảm
    Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm".


    Có lẻ do gõ sai, căn cứ vào nguyên tác bên dưới, nên chăng sửa lại là :

    "Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
    Chỉ bởi như kia đạo táng tâm
    Sao giống Tử Kỳ đa sầu cảm ?!
    Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm".



    此時說道罕知音,
    只為如斯道喪心。
    奚似子期多爽慘,
    聽來一達伯牙琴。


    Thử thời thuyết đạo hãn tri âm,
    Chỉ vị như tư đạo táng tâm.
    Hề tự Tử Kỳ đa sảng sẩm,
    Thính lai nhất đạt Bá Nha cầm.



    (****)

    秋來涼氣爽胸襟,
    八斗才高對月吟。
    堪笑禪家癡鈍客,
    為何將語以傳心。


    Thu lai lương khí sảng hung khâm,
    Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm.
    Kham tiếu thiền gia si độn khách,
    Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm.


    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  2. The Following User Says Thank You to hungcom For This Useful Post:

    hoatihon (06-12-2015)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •