21. THIỀN SƯ Không Lộ ( ? - 1119)
Chùa Nghiêm quang, Hải thanh, họ Dương. Dòng dõi làm nghề chài, sau bỏ nghề chài, hướng lòng theo Phật, thường trì tụng đà la ni môn. Trong khoảng Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065) cùng bạn đạo là Giác Hải cất bước vân du, tạm đến chùa Hà trạch (1)nương thân, mặc áo cỏ, ăn lá cây, đến nỗi quên chính thân mình. Ngoài dứt ruỗi dong, trong tu thiền định, tâm thần tai mắt ngày một nhẹ nhàng, bèn bay lên không, đi trên nước, làm cọp nép, kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ, người không lường nổi (2).
Sau Sư về quận mình lập chùa. Một hôm, có thị giả thưa rằng: "Từ ngày con đến đây, chưa được
thầy dạy bảo chỗ tâm yếu, nhưng con mạn phép xin trình một bài kệ:
"Rèn luyện thân tâm mới được trong
Sum suê cây thẳng ngó sân không
Có người đến hỏi Không vương pháp, (3)
Ảnh rập hình ngồi cạnh chấn phong".
Sư xem xong bảo: "Ngươi đem Kinh đến, ta vì ngươi nhận, ngươi mang nước đến, ta vì ngươi uống, thì có chỗ nào mà ta lại không cho ngươi tâm yếu?" (4). Bèn cất tiếng cười ha hả. Sư thường nói kệ rằng:
"Chọn chỗ đáng nương, đất rắn rồng,
Tình quê suốt buổi mãi vui rong
Có khi lên thẳng đầu non quạnh
Huýt một hơi dài lạnh cõi không" (5) (*).
Ngày mồng 3 tháng 6 năm Kỷ hợi, Hội Tường Đại Khánh thứ 10 (1119), Sư viên tịch. Môn đồ thu thập xá lợi táng trước cửa chùa.
Sau đó, vua ban chiếu sửa rộng chùa này và đặc cách cho thuế hộ 20 người để trông coi hương khói. (Vị Sư này không có niên đại có thể truy cứu, nay dựa theo thứ tự truyền pháp trong Nam tôn đồ mà mô tả ra đây) (6).
________________
[SIZE="3"]Chú thích :
(1)
Chùa Hà trạch này chắc là chùa của Lôi Hà Trạch, tên một vị Thiền sư mà Thông Biện nói tới như người đồng thời với Mai Viên Chiếu và Nhan Quảng Trí. Xem chú thích (22) truyện Thông Biện. Việt sử tiêu án1 tờ 109b3 ghi lời bàn của Ngô Thời Sỹ thế này:
"Triều Lý sùng Phật, từ Vạn Hạnh nổi tiếng, người ta ưa theo. Tiếp đến có Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải đều người Hải thanh, thờ sa môn Hà Trạch làm thầy. Lại có Chân nhân Thông Huyền cũng nổi tiếng phép thuật, nên Nhân Tôn có lời khen: "Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo lại huyền". Nhưng kêu rồng xuống làm cọp nép, đấy chẳng phải tài phò nguy định loạn. Đi trên không, bay giữa trời, đấy chẳng cách trị dân giữ nước ..."
(2)
An nam chí nguyên 3 tờ211 dẫn đoạn này nói về Không Lộ. Nó viết: "Thiền sư Không Lộ là sư huyện Giao thủy, có thể bay giữa không, đi trên nước, làm cọp nép, kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ, người không lường nổi".
(3)
Không Vương pháp, pháp của Không Vương, tức của Phật, đo đạt được bản tính không của vạn hữu mà thiết lập. Xem câu hỏi trong truyện Diên Chiểu ở Truyền đăng lục :
Bất tằng bác lãm Không Vương giáo
Lược tá huyền cơ thế đạo khan
(4)
Bài kệ rập theo bài thơ tặng Duy Nghiễm của Lý Cao trong Truyền đăng lục. Cao hỏi Nghiễm: "Thế nào là đạo?". Nghiễm giơ tay chỉ trên dưới nói: "Hiểu không?". Cao đáp: "Không hiểu". Nghiễm nói: "Mây trên trời, nước trong bình". Cao bèn mừng rỡ sụp lạy và viết bài kệ:
Luyện đắc thân hình tợ hạc hình
Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết
Vân tại thanh thiên thủy tại bình
(Rèn được thân hình giống hạc hình
Dưới tùng ngàn cỗi đôi hòm kinh
Ta đi hỏi đạo không thêm nói
Mây tại trời xanh, nước tại bình)
Thiền sư Sùng Tín nói với Thầy mình là Đạo Ngô: Tôi từ thuở tới đây không được thầy chỉ thị tâm yếu? Ngô đáp: "Từ lúc ngươi tới đây ta chưa từng không chỉ thị tâm yếu cho ngươi". Tín nói: "Chỉ thị chỗ nào?". Ngô đáp: "Ngươi mang trà đến ta tiếp cho ngươi, ngươi mang cơm đến ta nhận cho ngươi. Lúc nào ngươi chào ta, ta liền cúi đầu. Thế thì chỗ nào là ta không chỉ thị tâm yếu?".
Xem thêm truyện Thiền sư Thiện Hội nói với một tiểu thị giả: "Ngươi nấu cơm, ta nhóm lửa. Ngươi dọn bàn, ta dở bát. Ta phụ rãy ngươi ở chỗ nào đâu?".
(5)
Thiền sư Dược Sơn một đêm kinh hành trên núi, mây vẹt trăng tỏ, bèn cười vang, truyền dài 90 dặm đông tới Phong dương. Thứ sử Lý Cao nhân đó làm bài thơ tặng:
Tuyển đắc u cư hiệp dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời, trực thượng cô phong đỉnh
Nguyệt hạ phi vân tiếu nhất thanh.
(6)
Bản in đời Nguyễn của An Thiền dưới cái tên Trùng khắc đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng chép về một truyện sử hoàn toàn khác với truyện sử đây về Không Lộ. "Trong khoảng Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tôn, có Thiền sư Không Lộ, người Lại trì, huyện Chân định, tỉnh Nam định, họ Nguyễn, thường cùng với Giác Hải và Từ Đạo Hạnh kết làm đồng chí. Năm ông 29 tuổi ba người đi qua nước Thiên trúc, theo học với một vị Sa môn. Được lục trí thần thông rồi, bèn
quay trở về quê mình, dựng chùa Diên phúc, chuyên trì chú Đại bi. Bấy giờ Không Lộ muốn tạo cho nước Đại nam bốn món đồ, chỉ hiềm vì dân nghèo sức mọn. Một hôm ông nghĩ tới nước Tống đất rộng tất có nhiều đồng tốt có thể dùng cho việc đúc tạo, bèn liền rút ngắn đường, đi lên phương Bắc, khách trú ở nhà một trưởng giả, rồi xin đất sáu tấc để dựng chùa. Vị trưởng giả cười nói rằng: "Xưa Lương Thái tử dựng chùa, đất rộng ngàn dặm, vàng ròng khắp đất. Sao bây giờ lại lấy sáu tất đất như thể chỗ chuồng gà mà làm chi?". Đêm đó Sư bèn tung áo cà sa phủ khắp mười dặm đất. Vị trưởng giả thấy ông có phép làm thần, bèn đem hết vợ con đến lạy tạ. Từ đó, cả nhà đều qui y Tam bảo.
Ngày hôm sau, ông mặc pháp phục, cầm gậy vào triều, thẳng đứng giữa sân rồng. Vua bấy giờ đang buổi thị triều chính văn võ hai ban, thấy vị Sư già, bèn triệu vào hỏi: "Lão ông là dân người phương nào, tên họ là chi, đến đây có việc gì?" Vị
Sư già thưa: "Tôi là bần tăng của một nước nhỏ, xuất gia đã lâu năm, nay muốn tạo bốn món đồ cho Đại Nam, nhưng vì sức không theo lòng, cho nên tôi không ngại vượt núi băng rừng ngàn dặm đến đây. Ngưỡng mong Thánh đế mở rộng tấm lòng bố thí cho một ít đồng tốt, để tiện việc tạo đúc". Vua hỏi: "Đồ đệ đi theo có bao nhiêu vị?". Sư đáp: "Chỉ một mình bần tăng thôi, xin đầy một bao đồng, tự mình vác về là đủ". Vua nói: "Phương Nam đường sá xa xuôi, cho phép Sư tùy sức mà lấy, chẳng cần đếm ghi". Vị quan giữ kho thấy nhà Sư nghèo đã lấy hết kho đồng rồi, mà vẫn chưa đầy một bao, bèn le lưỡi lắc đầu, vào triều tâu việc đó. Vua ngạc nhiên hối tiếc, nhưng nghiệt vì đã hứa cho, nên không thể làm sao được. Vua đem trăm quân tiễn đưa về nước. Vị Sư nghèo từ chối, nói rằng: "Một bao đồng, tự mình đủ sức mang đi, chẳng nhọc đưa gánh". Vị Sư nghèo đi ra ngoài rồi, bèn lấy gậy quảy bao mà đi một cách nhẹ nhàng. Qua sông bèn lấy nón làm ghe, rồi trở về.
Trong phút chốc đã tới bến Hoàng giang, bèn tới chùa Quỳnh lâm, huyện Đông triều, tỉnh Hải dương, đúc tượng Đại Phật Di Đà, tháp Báo thiên ở kinh đô một ngọn, chuông lớn chùa Phổ lại một quả, vạc lớn chùa Phổ minh một cái. Số đồng còn lại đem đúc hồng chung cho chùa ở xã mình, nặng ba ngàn ba trăm cân. Lại đúc cho chùa Diên phúc, huyện Giao thủy một quả hồng chung nặng ba ngàn cân. Công quả hoàn thành, bèn làm bài kệ tán rằng:
Cỡi nón vượt biển lớn
Một giây muôn dặm đường
Tống đồng một bao hết
Tay múa sức ngàn cân.
Bấy giờ Hoàng đế Nhân Tôn xây điện Hưng Long năm sau mới xong, cực kỳ tráng lệ. Bỗng nghe trên rường hai con ễnh ương kêu lớn, tiếng như sấm to. Vua ủ rũ không vui. Lúc ấy, vị chỉ huy sứ tâu: "Chỉ có Không Lộ và Giác Hải mới trừ được loài quái vật đó".
Chỉ huy sứ tức thì nhận lệnh vào hôm rằm tháng giêng đến trước am sư, Sư hỏi: "Chỉ huy đến sao trễ thế?" Vị chỉ huy trả lời:
"Thầy sao biết trước chức tước của tôi?" Sư đáp: "Ta cỡi trăng đạp mây nhân vào thành vua, nên sớm biết việc đó". Ngày đó Sư đến kinh đô. Vua đem một cây đinh lớn đóng vào cột điện, nói rằng: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì làm Pháp chủ". Không Lộ lấy tay bật cái đinh ra một cách nhẹ nhàng và mật tụng thần chú thì hai con ễnh ương nghẹn cổ không còn kêu và giây lát rớt xuống đất. Vua thưởng vàng ròng một ngàn cân, ruộng đèn nhang năm trăm mẫu và phong làm Quốc sư.
Bấy giờ vua Thần Tôn tuổi mới 21, bỗng nhiên biến làm một con cọp dữ, xông xáo cắn người, nanh vuốt dễ sợ. Vua phải làm một cái chuồng vàng mà nhốt đi. Thì nghe con nít huyện Chân định hát rằng:
Nước có Lý Thần Tôn
Triều đình muôn chuyện thông
Muốn yên bệnh thiên hạ
Phải được Nguyễn Minh Không