17. THIỀN SƯ Ngộ Ấn (1020 - 1088)


Chùa Long ân, Ninh sơn, phủ Ứng Thiên, người Từ lý, làng Kim bài, họ Đàm tên Khí. Mẹ là Cù Thị, lúc chưa lấy chồng, nhà ở bên cạnh rừng Mộ, thấy người bẫy chim đêm bà buồn bã nói: "Thà chịu chết làm lành, chứ không chịu sống làm ác".
Một hôm, bà bắt đầu dệt gấm, có một con khỉ lớn từ trong rừng ra, đến ôm lưng bà, trọn ngày mới bỏ đi. Cù Thị biết mình có thai. Đến khi sinh con, bà ghét lắm, đem bỏ trong rừng. Có người Chiêm thành cùng làng là Cụ Sư họ Đàm lượm đem về nuôi, nhân đó đặt tên là Khí.
Đến năm 10 tuổi, theo học nghiệp Nho. Học vấn càng ngày càng tiến, rất giỏi chữ Hán và Phạn.
Năm 19 tuổi xuất gia, đầy đủ giới định. Đối với nghĩa của hai kinh Viên Giác, Pháp hoa Sư nghiên cứu rất tinh tường. Khi đã được tâm ấn nơi Quảng Trí chùa Quán đảnh, Sư vào thẳng Ninh sơn dựng am tranh tu hành, gọi là Ngộ Ấn.
Có lần vị tăng hỏi: "Thế nào là đại đạo?"
Sư đáp: "Đường lớn".
Vị tăng thưa: "Kẻ học đạo này hỏi đại đạo, mà thầy đáp là đường lớn, vậy không hiểu ngày nào mới đạt được đại đạo?".
Sư đáp: "Mèo chưa biết bắt chuột?".
Tăng thưa: "Con mèo có Phật tánh không?".
Sư đáp: "Không" (1).
Tăng liền hỏi: "Hết thảy hàm linh đều có Phật tính, sao riêng Hoà thượng lại không?".
Sư đáp: "Không, ta không phải hàm linh".
Tăng thưa: "Đã không phải hàm linh, vậy có phải Phật không?"
Sư đáp: "Ta không phải Phật, cũng không phải hàm linh"(2).
Có người hỏi: "Phật là gì? Pháp là gì? Thiền là gì?".
Sư đáp: "Đấng Pháp vương vô thượng, ở thân là Phật, ở miệng là Pháp, ở tâm là Thiền. Tuy là
ba phần, nhưng điểm kết là một. Ví như nước của ba con sông kia, tuỳ chỗ đặt tên, tên gọi tuy không giống, nhưng tính của nước thì không khác" (3).
Ngày 14 tháng 6 năm Quảng hựu thứ 4 (1088) [23b1]khi sắp thị tịch, Sư nói bài kệ sau:

Diệu tính rỗng không chẳng thể bâu
Rỗng không tâm ngộ có gì đâu
Trên non ngọc đốt màu thường đẹp
Sen nở trên lò ướt chưa khô.
(*)

Nói kệ xong, Sư vui vẻ ra đi, thọ 69 tuổi. Môn đồ để tâm tang ba năm.


____________

Chú thích :

(1)
Thiền sư Triệu Châu (778-897).Có vị sư hỏi: "Con chó có Phật tánh không?". Châu trả lời: "không". Xem Vô môn quan tờ 292c21.

(2)
Thiền sư Duy Khoan (735-817). Có v ịsư hỏi: "Thế nào là đạo?". Sư đáp: "Núi đẹp lớn". Tăng nói: "Kẻ học đạo mà hỏi thầy về đạo, sao thầy lại nói về núi đẹp?" Sư đáp: "Ngươi chỉ biết có núi đẹp thì làm sao mà đạt đạo". Tăng hỏi: "Con chó có Phật tính không?" Sư đáp: "Có". Tăng hỏi: Hoà thượng có không?". Sư đáp: "Ta không có". Tăng hỏi: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tính, Hoà thượng vì sao mà riêng không có?" Sư đáp: "Ta chẳng phải là tất cả chúng sanh". Tăng hỏi: "Đã chẳng phải là chúng sanh thì là Phật sao?" Sư đáp: "Chẳng phải Phật". Xem Truyền đăng lục 7 tờ 255a1u26-22.

(3)
Thiền sư Duy Khoan. Bạch Cư Dị thường đến hỏi Sư: "Thiền sư lấy gì mà thuyết pháp?". Sư đáp: "Vô thượng bồ đề, mặc ở thân là luật, nói ở miệng là pháp, hành ở tâm là thiền. Ứng dụng nó thì có ba, nhưng đích nó là một. Ví như sông Dương tử, sông Hoàng Hà, sông Hoài, sông Hán tùy theo chỗ mà đặt tên, tên tuy không phải là một, nhưng tính nước không phải là hai. Luật tức là pháp, pháp tức là thiền, thì làm sao trong đó có thể dối dấy lên sự phân biệt". Xem Truyền đăng lục7 tờ255a25-29.

-----------------

Chú thích của hungcom :

(*)

妙性虛無不可攀,
虛無心悟得何難。
玉焚山上色常潤,
蓮發爐中濕未桿。


Diệu tính hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can.