Thế Hệ Thứ Tám (6 người, thiếu 3 người)
15. QUỐC SƯ Thông Biện (? - 1134)
Chùa Phổ ninh, Từ liêm, người Đan phụng, họ Ngô, con dòng Phật tử. Bẩm tính thông tuệ, rất giỏi tam học (1). Ban đầu đến tham bái Thiền Sư Viên Chiếu, chùa Cát tường. Khi rõ được yếu chỉ bèn đến ở tại Quốc tự của Thăng kinh (2), tự gọi hiệu là Trí Không.
Ngày 15 tháng 2, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu (3) có lần đến trai tăng ở chùa Sư, cùng với các bậc kỳ túc thăm hỏi ý nghĩa Phật và Tổ, có gì hơn thua ? Phật trú phương nào? Tổ ở nơi đâu? Đến đất nước này từ lúc nào? Trao truyền đạo đây, ai trước ai sau ?. Còn niệm tên Phật, đạt tâm Tổ, tuần tự truyền nhau, thì chưa biết cái nào là tôn chỉ?
Mọi người đều không lên tiếng, Sư bèn đáp rằng: "Thường trụ thế gian, không sanh không diệt thì gọi là Phật. Hiểu rõ Tâm tôn của Phật, hạnh giải đều hiệp nhau, thì gọi là Tổ (4). Phật và Tổ là một. Bởi bọn lạm xưng học giả tự dối nói là có hơn thua vậy. Vả Phật nghĩa là giác ngộ,và sự giác ngộ đó xưa nay vắng lặng thường trú, hết thảy hàm sinh, đều cùng một nguyên lý đấy, nhưng bởi bụi lòng che khuất, theo nghiệp nổi trôi, mà chuyển nên các cõi. Đức Phật vì lòng từ bi,nên thị hiện đản sanh đất Trúc, bởi vì nó là nơi được gọi trung tâm của trời đất (5). Năm 19 tuổi xuất gia, năm 30 thành đạo. ở đời thuyết pháp 49 năm, mở bày các phương tiện, khiến người ngộ nhập đạo đó. Ấy gọi là sự hưng khởi của một thời đại kinh giáo (6). Khi sắp nhập Niết bàn, sợ người sau mê chấp sinh tệ, nên bảo với Văn Thù rằng: "Suốt 49 năm, ta chưa từng nói một chữ, sao bảo là có điều để nói". Rồi cầm một cành hoa đưa lên, mọi người đều ngơ ngác, chỉ có Tôn Giả Ca Diếp nở mặt mỉm cười (7), Phật biết Ca Diếp đã tỏ ngộ, liền đem Chánh pháp nhãn tạng giao cho, ấy là vị Tổ thứ nhất. Đó gọi là Tâm tôn, truyền riêng ngoài giáo điển.
Về sau, Ma Đằng (8) đem kinh pháp truyền vào đất Hán, và Đạt Ma đem tâm chỉ truyền sang Lương và Nguỵ. Việc truyền kinh pháp đến Thiên thai (9) thì thịnh, gọi là Giáo tôn. Được yếu chỉ của Đạt Ma thì đến Tào khê (10) mới sáng, gọi là Thiền tôn. Hai tôn ấy truyền đến nước Việt ta đã nhiều năm. Giáo thì lấy Mâu Bác (11), Khương Tăng Hội (12)làm đầu. Thiền thì lấy Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm phái trước, Vô Ngôn Thông làm phái sau. Đó là những vị Tổ của hai phái".
_____________
Chú thích :
(1)
Tam học. Chỉ ba môn học chính của Phật giáo, đấy là học về Giới, học về Định và học về Tuệ, hay thường gọi tắt là Giới Định Tuệ.
Để học về Giới, người ta phải dựa vào những bản điều luật Phật giáo, tức là Luật tạng. Để học về định, người ta phải suy gẫm về những lời dạy của Phật Thích Ca, tức Kinh tạng (*). Để học về Tuệ, người ta nghiên cứu những tác phẩm triết học Phật giáo, tức Luận tạng (**). Cho nên, nói rằng giỏi về tam học, tức cũng có nghĩa giỏi về toàn bộ kinh điển Phật giáo, tức Kinh, Luật và Luận.
(2)
Nguyên văn: Thăng kinh Quốc tự. Quốc tự đây nghi là bản in khắc sót chữ Khai, tức chỉ chùa Khai quốc của kinh đô Thăng long, nơi những cao tăng của triều Đinh Lê đã từng sống. Vềchùa Khai quốc, xem chú thích (1) ởtruyện Vân Phong.
(3)
Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu. Nguyên bản viết là Phù Thánh Cảm Linh Nhân hoàng thái hậu. Nhưng chúng tôi cứ theo Đại Việt sử lược, Toàn thư và Cương mục chính biên để sửa lại là Phù Thánh Linh Nhân. Linh Nhân là mẹ của vua Lý Nhân Tôn. Người làng Thổ lỗi, mà sau này khi sinh ra Nhân Tôn đã cải lại là Siêu loại, họ Lê được Thánh Tôn nạp vào cung năm 1063 và đặt tên là _ Lan phu nhân. Năm 1066 sinh Nhân Tôn và được tôn làm Thần phi. Năm 1073 khi mới lên ngôi một năm, Nhân Tôn u sát Dương thái hậu và tôn mẹ minh lên làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh Nhân mất năm 1117 và được thụy là Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu.
(4)
Dương Huyền Chi hỏi Bồ Đề Đạt Ma sao gọi là Tổ, Bồ Đề Đạt Ma trả lời: "Kinh Phật tâm tông, hạnh giải tương ưng, danh chi viết Tổ". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220a5. Hành giải tức có nghĩa như tri hành hiệp nhất. Hành tức việc làm, và giải có nghĩa sự hiểu biết.
(5)
Nguyên văn: "Cố thị sanh Trúc thổ cái vị thiên địa chi chính trung giả". Tham chiếu Mâu tử lý hoặc luận trong Hoằng minh tập 1 tờ 1c25-26. Sở dĩ sanh Thiên trúc giả, thiên địa chi trung, xử kỳ trung hoà giả.
(6)
Nhất đại thời hưng giáo. Thuật ngữ của Thiền gia chỉ giáo pháp tam thừa do Phật Thích Ca nói trong suốt 49 năm tại thế, bao gồm các thứ Quyền, Thiệt, đốn, tiệm v.v... ngoại trừ Thiền tôn, một thứ "giáo ngoại biệt truyền". Từnày tương đương với từ"nhất đại giáo" của Chỉ quán nghĩa lệ hay "nhất đại thánh giáo" của Thiên thai tứ giáo nghi, mà những người Thiền tôn, đặc biệt là những người, chuyên về giáo pháp, dùng để gọi toàn bộ giáo lý của Phật Thích Ca.
(7)
Truyền thuyết của Thiền tôn về nguyên lai của tôn mình. Vương An Thạch hỏi Sư HuệTuyền về xuất xứ của truyền thuyết này. Tuyền nói trong Đại tạng không thấy chép. Vương bảo, tình cờ ông đọc thấy nó trong Đại phạm thiên vương vấn Phật quyết nghi kinh (?). Nó gồm có ba quyển, và nội dung nói theo Vương, thì như sau: Phạm vương đến Linh sơn, dâng hoa ba là màu vàng cúng Phật và cúng thân mình làm giường ngồi, xin Phật vì chúng sanh mà thuyết pháp. Thế Tôn lên tòa giảng, cầm hoa dơ lên,
trời người trăm vạn đều không hiểu ra. Chỉ có đầu đà Kim Sắc rạng mặt mỉm cười. Thế Tôn nói: "Ta có Chính pháp nhãn tạng Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, đem giao cho Ma Ha Ca Diếp". Vương cũng còn thêm rằng: "Kinh này phần lớn bàn tới việc đế vương, vì vậy nên bị cất đi trong cung vua và người đời ít nghe tới nó".
(8)
Tức Ca Diếp Ma Đằng, dịch giả kinh Phật đầu tiên tại Trung quốc theo truyền thuyết.
(9)
Tức Trí Khải (538-597) vì sống ở núi Thiên thai, nên cũng gọi là Thiên Thai hay Thiên Thai đại sư, người sáng lập nên một trường phái mang tên Thiên Thai tôn, mà tự nguyên uỷ vì dựa vào kinh Pháp hoa nên gọi là Pháp hoa tôn, và đề xướng ra một phương pháp tu hành chỉ quán thường được mệnh danh "Thiên thai giáo quán".
(10)
Tức Huệ Năng (638-713), vì sống ở chùa Nam hoa dựng gần khe Tào, nên cũng gọi là Tào khê.
(11)
Tức Mâu Tử(165 - ?) tác giả Mâu tử lý hoặc luận, tác phẩm lý luận Phật giáo đầu tiên tại nước ta cũng như của miền đông châu Á, viết vào khoảng năm 198 sau Tây lịch.
(12)
Khương Tăng Hội (? - 280), sản phẩm đầu tiên của nền Phật giáo nước ta, tác dịch giả một số tác phẩm quan trọng, mà đặc biệt nhất là Lục độ tập kinh, đóng góp rất nhiều tài liệu lịch sử văn học cho công tác nghiên cứu cổ sử của ta.
-------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Có lẻ thời điểm dịch Thiền Uyển Tập Anh này, dịch giả Lê Mạnh Thác hãy còn là một học giả đơn thuần chứ chưa có hiểu nhiều về đạo Phật.
Bảo rằng : " Để học về định, người ta phải suy gẫm về những lời dạy của Phật Thích Ca, tức Kinh tạng" là không đúng.
Đề nghị sửa lại như sau : "Để học về Định, hành giả phải tập ngồi kiết già hay bán già từ 1 giờ trở lên, phải "lên lịch" cố định (lập thời khóa biểu) hằng ngày, phải tập trung tư tưởng, không cho tư tưởng nhảy nhót lăng xăng như "khỉ vượn chuyền cành". Bước đầu phải dùng phương tiện đếm hơi thở (Sổ tức), khi tâm đã tập trung được (đếm đầy đủ, không lộn) thì dần buông thả (không đếm nữa), thả tâm chìm vào sự yên lặng nhưng tỉnh thức,....v....v....."
(**)
Bảo rằng : "Để học về Tuệ, người ta nghiên cứu những tác phẩm triết học Phật giáo, tức Luận tạng" là quá ư thiếu sót.
Đề nghị đọc lại như sau :"Để học về Tuệ, hành giả phải Văn, Tư, Tu. VĂN là tham học Kinh điển, TƯ là suy nghĩ, tìm hiểu nghĩa sâu huyền, TU là phải Giới Hạnh nghiêm minh, Thiền Định đều và đủ, Làm mọi Công đức khác phụ trợ THÌ TRÍ TUỆ MỚI PHÁT SINH ĐƯỢC".
 
  
					
					
					
						
  Trả lời với trích dẫn