10. THIỀN SƯ Cứu Chỉ

Chùa Diên linh, núi Long đội, Yên lãng, Người Phù đàm, Châu minh, họ Đàm. Thuở nhỏ hiếu học, sách Nho, sách Phật, không thứ gì là không quán xuyến. Một ngày nọ ôm sách than rằng:
"Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát. Chỉ có Phật pháp không kể có không, có thể dứt sanh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức ấn chứng cho mới được". Nhân đó bỏ tục, đến chùa Cảm ứng ở Ba sơn thọ Cụ túc với Định Hương trưởng lão.

Ngày cầu đạo, Trưởng lão hỏi: "Thế nào là nghĩa của cứu cánh?".
Sư đáp: "Chưa"
Sơn nói: "Ta với ngươi là nghĩa của cứu cánh rồi !".
Sư ngẫm nghĩ.
Sơn nói: "Qua mất rồi". (*)
Nhờ lời nói đấy, Sư rõ được yếu chỉ. Nhân đó lấy tên Cứu Chỉ. Sau Sư vào chùa Quang minh ở núi Tiên du, tu khổ hạnh đầu đà (1) sáu năm không bước chân xuống núi. Tiếng tăm giáo hóa của sư vang đến tai vua. Vua Lý Thái Tôn nhiều lần cho mời, Sư không đến, nên ba lần thân hành đến chùa Sư, lấy lời an ủi thăm hỏi. Thái Sư Lương Văn Nhậm cũng rất kính trọng.

Trong khoảng Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058) Tể tướng Dương Đạo Gia đem chùa mình, mời Sư về trụ trì. Sư quyết từ không được, đành phải làm theo. Ngày Sư xuống núi bèn nói với mọi người rằng: "Ta không trở lại đây nữa". Chim muông trong rừng kêu thương ba tuần không dứt. Ở vừa ba năm,vào một ngày tháng, năm nào đó của niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065), khi sắp thị tịch, Sư họp môn đồ dạy rằng:

Tất cả pháp môn
Vốn từ tính ngươi
Tất cả pháp tính
Vốn từ tâm ngươi
Tâm, pháp như một
Vốn chẳng hai pháp
Phiền não trói buộc
Tất cả đều không
Phải quấy, tội phứơc
Tất cả đều huyễn
Không đâu chẳng quả, chẳng nhân
ở trong nghiệp không phân biệt
ở trong báo không phân biệt
Nếu có phân biệt đối với nghiệp
Thì không tự tại
Tuy thấy tất cả pháp
Mà không chỗ thấy
Tuy biết tất cả pháp
Mà không chỗ biết
Biết tất cả pháp
Nhân duyên làm gốc
Thấy tất cả pháp
Chính tâm làm tôn
Tuy nhiễm thực tế
Hiểu rõ thế gian
Đều như biến hóa
Thấu rõ chúng sanh
Chỉ là một pháp
Không có hai pháp
Không bỏ nghiệp cảnh
Phương tiện thiện xảo
Đối giới hữu vi
Bày pháp hữu vi
Mà không phân biệt
Tướng của vô vi
Vì muốn dứt trừ
Vọng niệm so đo
Của ta ấy vậy.
(**)

Rồi nói kệ rằng:

"Rõ biết thân tâm vốn lặng yên,
Thần thông biến hóa hiện mọi tướng
Hữu vi vô vi từ đây hiện
Thế giới hà sa không thể lượng
Tuy dù biến khắp cả hư không
Mỗi mỗi xem ra chẳng hình dạng
Ngàn năm muôn năm khó sánh đó
Xứ xứ nơi nơi thường tỏ rạng
(2)

Đúng ngọ hôm ấy, dựng đàn trà tì, đồ chúng thu linh cốt của Sư xây tháp phụng thờ.



____________

Chú thích :

(1)
Đầu đà, phiên âm chữ Phạn Dhùta. Dhùta đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho nên hạnh đầu đà, có nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn mặc ở tạo nên. Vì vậy, nội dung hạnh tu này đại khái gồm 12 việc sau: Đấy là mặc áo dùng đồ giẻ rách may lại , không quá ba cái, đi xin mà ăn (khất thực), chỉ ăn một lần trong ngày, không ăn nhiều, ở nơi quạnh vắng, ở bên bãi mồ, ở dưới gốc cây, ở giữa đất trống, nơi hang động, thường ngồi mà không nằm. Đấy là 12 việc, người tu hạnh đầu đà phải hoàn thành.

(2)
Nguyên văn:

Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quán lai một hình trạng
Thiên cổ vạn cổ nan thử huống
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng"
. (***)

Bài kệ này rập vần mà mượn chữ từ bài kệ sau của Huệ Tư (514-577):

Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Ẩn hiện linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc tọa thường nguy nguy
Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất kiến vi trần tướng
Khả tiếu vật hề vô tỉ huống
Khẩu thổ minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.


-------------
Chú thích của hungcom :

(*) Hình như văn bản này đã bị gỏ sai, h/c đã tra cứu một văn bản khác, rõ nghĩa hơn :

Nhân đó Sư xả tục xuất gia, tìm đến Ấp Sơn, chùa Cảm Ứng xin làm đệ tử Trưởng Lão Định Hương.
Giờ tham thỉnh, Sư hỏi: Thế nào là nghĩa cứu cánh ?
Trưởng Lão im lặng giây lâu, hỏi lại Sư: Hiểu chưa ?
Sư thưa: Chưa hiểu.
Trưởng Lão bảo: Ta đã cho ngươi nghĩa cứu cánh.
Sư suy nghĩ.
Trưởng Lão bảo: Lầm qua rồi!
Ngay câu nói này, Sư thấu triệt ý chỉ. Nhân đó Trưởng Lão đặt tên Sư là Cứu Chỉ.


http://www.thuongchieu.net/index.php...nam&Itemid=356

(**)
"Nhất thiết pháp môn, bản tòng nhữ tính; nhất thiết pháp tính, bản tòng nhữ tâm. Tâm pháp nhất như, bản vô nhị pháp. Khiên triền phiền não, nhất thiết giai không; tội phúc thị phi, nhất thiết giai huyễn. Vô sở phi quả phi nhân. Bất ư nghiệp trung phân biệt báo; bất ư báo trung phân biệt nghiệp. Nhược hữu phân biệt, bất đắc tự tại. Tuy kiến nhất thiết pháp nhi vô sở kiến, tuy tri nhất thiết pháp nhi vô sở tri. Tri nhất thiết pháp, nhân duyên vi bản; kiến nhất thiết pháp, chính chân vi tông. Tuy nhiễm thực tế giải liễu thế gian như biến hoá; minh đạt chúng sinh duy thị nhất pháp, vô hữu nhị pháp. Bất xả nghiệp cảnh, thiện xảo phương tiện, phương ư hữu vi giới thị hữu vi pháp, nhi vô phân biệt vô vi chi tướng. Cái dục tuyệt ngã vọng niệm, kế giác cố dã”.

(Hết thảy mọi pháp môn bắt nguồn từ tính ngươi; hết thảy mọi pháp tính, bắt nguồn từ tâm ngươi. Tâm pháp là một, đâu phải là hai. Tội phúc thị phi, tất cả đều ảo; trói buộc phiền não, tất cả đều không. Chẳng cái gì không phải nhân; chẳng cái gì không phải quả. Chớ nên phân biệt nghiệp với báo; chớ nên phân biệt báo với nghiệp, ắt không tự tại. Dù thấy hết mọi pháp cũng là không thấy; dù biết hết mọi pháp cũng là không hay. Biết hết mọi pháp, nhân duyên là gốc; thấy hết mọi pháp, chính chân là nguồn. Dù đắm trong thực tế vẫn hiểu thế gian đều là biến hoá. Thấu rõ chúng sinh chỉ là một pháp, chứ không phải hai. Không bỏ nghiệp cảnh, đó là phương tiện thiện xảo. Như thế thì ở trong thế giới hữu vi mà chỉ rõ được pháp hữu vi và không phân biệt với tướng vô vi. Đó là vì muốn dứt bỏ mọi vọng niệm, mọi sự phân biệt mà thôi).

(***)
心法

覺了身心本凝寂,
神通變化現諸相。
有為無為從此出,
河沙世界不可量。
雖然遍滿虛空界,
一一觀來沒形狀。
千古萬古難比況,
界界處處常朗朗。