Lại hỏi: "Mọi thứ thủ xả đều luân hồi, không thủ không xả thời thế nào?" (1)
Sư đáp: "Giềng hồng đẹp đẽ xưa nay vậy
Có lá sum sê chẳng có hoa".
Lại hỏi: "Dứt hết nói năng ý ấy thế nào?" (2)
Sư đáp: "Theo gió tiếng còi luồn bụi trúc
Kèm trăng trái núi quá đầu tường".
Lại hỏi: "Chư Phật thuyết pháp là để giáo hóa mọi loài,
nếu hiểu được bản ý thì gọi là xuất thế, bản ý là gì?".
Sư đáp: "Xuân dệt hoa như gấm
Thu sang lá tựa vàng".
Lại hỏi: "Thế nào là một đường nhắm thẳng?" (3)
Sư đáp: "Đông tây xe ngựa ruỗi
Hôm sớm bụi mờ bay".
Lại hỏi: "Có pháp, có tâm, sinh vọng thức
Làm sao tâm, pháp thảy tiêu vong?".
Sư đáp: "Ví được lá tùng xanh cao ngất
Sá gì sương tuyết lả tả rơi".
Lại hỏi: "Ý tổ và ý kinh thế nào?".
Sư đáp: "Chống trượng lên mây khi thích chí
Mệt buông rèm trúc ngủ giường tre".
Lại hỏi: "Tổ tổ truyền nhau là truyền những gì?".
Sư đáp: "Đói đến tìm thức ăn
Rét thời xin áo mặc" (4)
Lại hỏi: "Thế nhân đều thuê nhà
Người dột ở đâu ta?".
Sư đáp: "Vầng ô cùng ngọc thố
Tròn khuyết dối nhọc chia".
Lại hỏi: "Thế nào là con đường duy nhất đến Tào khê?".
Sư đáp: "Khá thương kẻ khắc thuyền (5)
Rốt cuộc ý hoang mang".
Sư từng soạn Dược sư thập nhị nguyện văn (6). Vua Lý Nhân Tôn lấy bản thảo của Sư, sai sứ đem sang Triết Tôn (7) Triết Tôn cho mời Pháp sư Cao tòa chùa Tướng quốc đến xem (8). Xem xong liền chắp tay lạy, mà nói rằng: "Phương Nam có bậc Đại sĩ nhục thân ra đời, ấy là vị Pháp sư khéo giảng kinh điển vậy. Bần đạo đâu có thể dám thêm bớt". Nhân đó chép lại một bản, rồi giao trả bản cũ. Sứ giả trở về thuật lại vua nghe, vua rất khen thưởng.
Vào một ngày tháng chín năm Canh ngọ Quảng Hựu thứ sáu (1090), Sư không bệnh, gọi chúng đến dạy rằng: "Trong thân ta đây, thịt xương gân cốt, tứ đại giả hợp, đều là vô thường, ví như ngôi nhà kia khi sụp đổ, cột kèo đều đổ. Cùng các con giã từ, hãy nghe bài kệ ta đây:
Thân như tường vách đổ xiêu rồi,
Thiên hạ bồn chồn xót dạ thôi,
Nêu rõ tâm không, không tướng sắc,
Sắc không ẩn hiện mặc xoay dời. (*)
Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 92 tuổi đời, và 56 tuổi hạ. Có để lại tập Tán Viên Giác kinh, Thập nhị bồ tát hành tu chứng đạo trường và Tham đồ hiển quyết một quyển (9) ngày nay còn truyền ở đời (10)
Chú thích :
(1)
Ý rút ra từ Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Xả vọng tâm, thủ Chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy.
(Bỏ lòng vọng, lấy lẽ chân
Bỏ lấy, lòng đó thành dối xảo).
(2)
Ngôn ngữ đạo đoạn. Luận Đại trí độ: Thế nào là Chân lý tuyệt đối?" Đáp: "Tất cả ngôn ngữ đều dứt, tâm hành đều diệt"
(nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt). Xem thêm Tín Tâm Minh:
Tín tâm bất nhị
Bất nhị tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn
Khứ lai phi kim. (**)
(3)
Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu, có người hỏi: " Thiền nào là một đường thẳng?". "Nhắm thẳng vào chỗ cong". Xem thêm Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác: "Trực diệt căn nguyên của Phật sở ấn" (***)
(4)
Ý lấy từ hai câu của Tuệ Trung quốc sư: "Cơ tức nghiết phạn, hàn tức trước y. (Đói thì ăn cơm, rét thì mặc áo).
(5)
Khắc chu khách. Điển lấy từ Thiện thận đại lãm của Lã thị xuân thu. Nước Sở có người đi thuyền, bị rơi kiếm xuống sông, bèn làm dấu chỗ rơi trên mạn thuyền để tới bến mà tìm. Kinh Bách dụ có một chuyện tương tự thế đó. Xem Bách dụ kinh ĐKT 209 tờ 545c. Thiền sư Văn Ích cũng có làm bài tụng:
Bảo kiếm bất thất
Hư chu bất khắc
Bất thất bất khắc
Bất tử vi đắc.
(6)
Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn ghi: "Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển Long Đàm Viên Chiếu thiền sư soạn ".Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ ghi :"Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển", mà không ghi tác giả. Đây chắc là một bài văn phát triển 12 nguyện của Phật Dược Sư, trong kinh Dược Sư nhấn mạnh đến tính chất tại thế của kinh này.
(7)
Đây chắc phải là Sứ bộ năm 1087 do Hộ bộ viên ngoại lang Lê Chung và Phó hiệu uý Đỗ Anh Bối làm chánh và phó sứ dẫn đầu, bởi vì Triết Tôn lên ngôi 1086 và đến năm 1090 nghĩa là năm Viên Chiếu mất, ta mới gởi một bộ phái khác sang kết hiếu. Do thế nếu phái bộ ngoại giao năm 1090 có mang sách Dược sư thập nhị nguyện văn sang Tống để cho các nhà sư Tống ngợi ca, thì ở nhà Viên Chiếu đã mất, nên Chiếu không thể nào nhận lời khen của Lý Nhân Tôn được.
(8)
Pháp sư Cao Tòa ở đây có thể là Thiền sư Đại Bản .Lâm gian lục quyển hạ tờ 55a5-b2 nói Đại Bản bị triệu đến ở chùa Tướng quốc dưới thời Tống Thần Tôn và rất có thể sống ở đó cho tới năm 1087, khi sứ bộ ta tới.
(9)
An nam chí lược15 tờ157: "Thiền sư Mai Viên Chiếu thường soạn Tham đồ hiển quyết đại lược nói: "Một hôm khi đang ngồi trước nhà, bỗng có 1 vị Tăng hỏi: "Phật cùng với Thánh, nghĩa ấy thế nào ?". Đáp: "Dưới dậu thu cúc rậm. Đầu cành xuân yến ca". Sách ấy phần lớn gồm những thứ như thế đó. Cứ vào dẫn chứng này của Lê Tắc, ta có thể nói rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ dẫn chứng trong truyện này đã hoàn toàn rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không nói là chúng chính là toàn bộ nội dung và văn ngữ của Tham đồ hiển quyết. Nếu khẳng định tất cả cơ duyên thoại ngữ đấy là Tham đồ hiển quyết, thì nó là một tác phẩm đời Lý được giữ lại cho tới ngày nay, một tác phẩm xưa nhất của lịch sử văn học, tư tưởng và triết học Phật giáo nước ta.
(10)
Cứ vào truyện này thì tác phẩm của Viên Chiếu gồm có:
1. Dược Sư thập nhị nguyện văn
2. Tán Viên Giác kinh
3. Thập nhị Bồ tát hành tu chứng đạo tràng
4. Tham đồ hiển quyết
Nhưng cứ một câu viết trong truyện của Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm ở dưới, theo đó, "Viên Chiếu thường có ca thi gởi tặng Bảo Tính, ngợi ca cái chí hướng cao thượng của Tính, có ghi đầy đủ trong tập của Chiếu nên đây không phiền chép ra"
(Chiếu thường hữu ca thi di Bảo, mỹ kỳ cao chí, cụ tại tập trung, tư bất phiền lục). Ta bắt buộc phải nghĩ rằng Chiếu còn có một tác phẩm khác bao gồm tất cả thi ca của Chiếu mang tên có lẽ là Viên Chiếu tập hay Viên Chiếu thi tập. (?)
Chú thích của hungcom :
(*)
Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi.
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.
身如墻壁圮頹時
舉世忽忽熟不悲
若達心空無色相
色空隱顕任推移
(**)
"Khứ lai phi kim" (đến và đi không phải bây giờ) câu này tối nghĩa, bản khác chép là "Phi cỗ lai kim" (Chẳng có xưa nay gì cả) : KHÔNG CÓ THỜI GIAN, h/c xin tùy quý đạo hữu chọn.
(***)
Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn
(Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật _ Trúc Thiên dịch)
直截根源佛所印
 
  
					
					
					
						
  Trả lời với trích dẫn