Lại hỏi: "Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Trăm năm sau sẽ về đâu?"
Sư đáp: "Rùa mù chui vách đá
Trạch què bò núi cao"
Lại hỏi: "Xanh xanh trúc biếc thảy chân như (1). Thế nào là dụng của chân như?".
Sư đáp: "Tặng anh ngàn dặm xa
Cười mang một bình trà" (2)
Tăng thưa: " Đến suông có ích gì là sao?" (3)
Sư đáp: "Ai biết đi Đông a
Nửa đường đầu đã bạc" (4)
Lại hỏi: "Đã hiên một cửa vắng
Thong thả gõ ai hay" (5)
Sư đáp: "Kim cốc đìu hiu hoa cỏ rối
Mà nay hôm sớm thả trâu dê".
Tăng thưa: "Vì sao như vậy?"
Sư đáp: "Giàu sang cùng kiêu thái
Lầu chợ khiến tan hoang" (6)
Lại hỏi: "Long nữ dâng châu thành Phật quả,
Đàn na bố thí phước ra sao?" (7)
Sư đáp: "Trong trăng quế muôn thuở
Rậm, thưa vẫn một vành".
Tăng thưa: "Nhọc mà vô ích là sao?" (8)
Sư đáp: "Như gương treo trên trời
Nhân gian soi khắp nơi".(9)
Lại hỏi: "Qua sông phải dùng bè _ Đến bến hết cần ghe
Khi không qua sông thì sao?" (10)
Sư đáp: "Ao khô cá lên cạn
Sống cả vạn năm xuân".
Tăng thưa: "Thế nào là "Theo dòng mới đạt được Diệu lý?"(11)
Sư đáp: "Nghe nói bạn Kinh Kha
Một đi không trở lại" (12)
Lại hỏi: "Lẫn lộn quặng vàng cùng một chất
Xin thầy phương tiện luyện tinh ròng" (13)
Sư đáp: "Không phải khách Tề quân
Sao biết biển cá lớn" (14)
_____________
Chú thích :
(1)
Có người hỏi Thiền sư Viên Chiếu: "Một tạng tròn sáng, thì thế là gì?" Chiếu đáp: "Nhọc người xa đến". Hỏi: "Thế thì chẳng phải là một tạng tròn sáng hay sao?". Chiếu đáp: "Xin uống một chén trà". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367c13-15.
(2)
Có người hỏi Thiền sư Án Xương: "Khi không chịu bàn bạc thì sao?" Xương đáp: "Thì đến mà làm gì?". Hỏi: "Đến cũng không bàn bạc". Đáp: "Đến suông cũng ích gì?" (Không lai hà ích). Xem Truyền đăng lục 20 tờ 363 b 15-17.
(3)
Có người hỏi Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: Pháp thân và Bát nhã là gì? Hải đáp: "Xanh xanh trúc bíêc đều là pháp thân, dờn dợn hoa vàng chẳng cái nào là chẳng Bát nhã". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247 c15.
(4)
Đông a, nơi ông già hẹn gặp Trương Lương sau 13 năm. Trương Lương là bầy tôi nước Hàn. Khi Tần Thỉ Hoàng thống nhất Trung quốc, Lương muốn báo thù cho nước, nhưng không có cách nào thành công. Môt hôm gặp một ông già trên cầu. Ông đánh rơi chiếc dép xuống cầu và bảo Lương đi lượm. Lương dầu tức giận, vẫn làm theo lời ông. Sau ông trao bí quyết cho Lương và dặn Lương sau 13 năm đến gặp ông ở Cốc thành. Bùi Ân chùa Cốc thành ở huyện Đông a. Xem Sử ký 55 tờ 2b2-4.
(5)
Dã Hiên, tên một vị Thiền sư. Những tài liệu Phật giáo và Thiền tông Trung quốc không ghi một ai có tên như vậy cả. Trong Thượng sĩ hành trạng do Trần Nhân Tôn viết và in ở Thượng sĩ ngữ lục tờ 40a4-5, Trần Nhân Tôn nói rằng trong khi để tang mẹ mình thì có yêu cầu Tuệ Trung "giảng hai lục Tuyết đậu và Dã hiên". Tuyết đậu lục là của Thiền sư Trùng Hiển ((980-1052). Còn
Dã hiên lục của ai, thì nay ta không rõ. Rất có thể là tác phẩm của một Thiền sư Việt Nam. Nếu Dã Hiên là một Thiền sư Việt Nam thì ông phải sống trước thời Viên Chíêu, tức trước năm 999.
(6)
Kim Cốc, nơi Thạch Sùng, người giàu nhất đời Tấn, xây dựng lâu đài cực kỳ tráng lệ xa hoa và là nơi ái thiếp của Sùng là Lục Châu tự tử, hiện ở phía tây bắc huyện Lạc dương, tỉnh Hà nam. Xem Tấn thư 3 tờ 10b7-13a4.
(7)
Long nữ hiến châu. Điển một người con gái dâng châu cho Phật trên hội Linh sơn và thành Phật ngay sau đó. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 12, phẩm Đề Bà Đạt Đa tờ 3a-b. Xem thêm Hoà thượng Đan Hà Ngoạn châu ngâm:
Long nữ Linh sơn thân hiến Phật
Bần nhi y hạ kỷ ta đà.
(8)
Lao nhi vô công. Chữ lấy từ thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu: "Cầu chi kỳ bản, kinh tuần nhi đắc, cầu chi kỳ mạt, lao nhi vô công." (Tìm cái gốc nó thì qua tuần tất có, tìm cái ngọn nó thì nhọc mà vô ích). Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 3a8, thành ngữ Lao nhi vô công cũng thường dùng trong Phật giáo để chỉ việc tu Thiền mà không kiêm tu Tịnh độ.
(9)
Có người hỏi Thiền sư Âu Chương:
"Thế nào là: Một vầng trăng treo
Muôn nước đều thấy ?"
Chương đáp: "Khó nói với kẻ nhắm mắt". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367b 23-24.
(10)
Thí dụ chiếc thuyền, rút ra từ kinh Kim Cang:
"Nên biết rằng Ta nói pháp cũng như thí dụ về chiếc thuyền" (*). Xem Kim Cang kinh tờ 749b10. Vĩnh Gia Huyền Giác, Quán tâm thập môn:
Nhiên độ hải ưng thượng thuyền
Phi thuyền hà năng độ?
(Nhưng qua biển phải lên thuyền,
Không thuyền sao qua được?)
Xem Truyền đăng lục 5 tờ 242a18-19
(11)
Tùy lưu thỉ hoạch diệu lý. Từ và ý rút ra từ bài kệ truyền pháp của Ma Noa La, tổ thiền thứ 22 ở Ấn độ:
Tâm tuỳ vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc tánh
Vô hỷ phục vô ưu
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 214a 24-25
(12)
Điển Kinh Kha đi sứ Tần trong Chiến quốc sách. Thái tử nước Yên và khách khứa tin Kinh Kha đến sông Dịch. Cao Tiệm Ly đánh đàn, Kinh Kha tiến mà ca:
"Gió vi vu hề sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi hề không trở về"
Xem Chiến quốc sách 31 tờ 5b10-11
(13)
Thí dụ vàng quặng của kinh Viên giác: "Thiện nam tử, như luyện quặng vàng, vàng không phải do luyện mà có. Khi đã thành vàng rồi thì không trở lại làm quặng nữa, trải qua thời gian vô cùng, tính vàng vẫn không hoại mất". Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ 915c17-18.
(14)
Điển của Tề Văn trong Chiến quốc sách và của thiên Thuyết lâm trong Hàn phi tử. Tỉnh Quách Quân nước Tề muốn xây thành
Tiết. Có nhiều người can ngăn nên dặn kẻ gác cửa, nếu ai xin vô để can ngăn thì đừng cho vô. Có người nước Tề xin vô để nói ba tiếng thôi, rồi chết cũng đành. Quách Quân cho vô. Người khách chỉ nói lớn ba tiếng "Biển cá lớn", rồi vọt chạy. Quách Quân ngạc nhiên cho gọi lại. Người khách mới giải thích ba chữ đó có nghĩa gì. Quách Quân mới thôi xây thành Tiết. Xem Chiến quốc sách 8 tờ 1b-2a và Hàn phi tử 8 tờ 5b-6a.
_________
Chú thích của hungcom :
(*)
"Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết:
Nhữ đẳng Tỳ kheo, tri ngã thuyết pháp, như phiệt dụ giả. Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp!"
(Do bởi nghĩa trên, cho nên Như Lai thường hay nói rằng :
Tỳ kheo các ông nên biết, lời Như Lai nói pháp cũng như thuyền bè, chỉ tạm dùng để qua sông. Phật pháp còn không được cố chấp hà huống chi Thế gian pháp.)
(Kinh Kim Cang)

Trả lời với trích dẫn