THẾ HỆ THỨ CHÍN (BA NGƯỜI, ÐỀU KHUYẾT LỤC)
THẾ HỆ THỨ MƯỜI (BỐN NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
44. TRƯỞNG LÃO LA QUÝ
Chùa Song lâm, làng Phù ninh, Phủ Thiên đức, người An chân, họ Ðinh. Thuở nhỏ vân du các phương, khắp hỏi các bậc thiền. Trải qua nhiều năm không gặp duyên đạo, bèn sắp thối chí. Sau tại pháp hội của Thông Thiện ở chùa Thiền chúng nghe nói một lời, lòng liền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy.
Khi Thiền sắp tịch, gọi Sư đến dạy: "Xưa thầy ta là Ðịnh Công, căn dặn ta rằng: con khéo giữ pháp của ta, gặp người họ Ðinh thì truyền. Con đúng là người đó. Ta nay đi vậy".
Khi đã đắc pháp, Sư tùy phương diễn hóa, chọn đất dựng chùa. Mỗi khi nói ra lời nào tất là phù sấm. Sư có lần ở chùa Lục tổ, đúc tượng Lục tổ bằng vàng, sau sợ trộm cướp nên đem chôn ở cửa chùa và dặn: "Gặp vua sáng lấy ra, đụng chúa tối thì dấu".
Khi sắp tịch, Sư dạy đệ tử là Thiền Ông rằng: "Xưa kia, Cao Biền (1) xây thành bên sông Tô lịch, biết đất Cổ pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt con sông Ðiềm(2) và những ao Phù chẩn(3) v.v…đến 19 chỗ để trấn yểm nó. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại nữa ở chùa Châu minh (4) ta có trồng một cây bông gạo để trấn chỗ dứt, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng Chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy".
Nói xong Sư tịch, thọ 85 tuổi.
Lại kể rằng, vào năm Bính thân đời Ðường Thanh Thái thứ 3 (936). Sư trồng cây bông gạo, thường có làm bài thơ kệ rằng:
"Ðại sơn đầu rồng ngững
Ðuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành(*)
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên". (5)
______________
Chú thích :
(1)
Cao Biền (? – 887) bắt đầu xây thành khoảng vào tháng 11 năm Hàm Thông thứ 7 (866). Thành đây là thành Ðại la, nằm tại địa phận thủ đô Hà nội ngày nay. Xem Ðại Việt sử lược 1 tờ 12b2 và Toàn thư B5 tờ 14b-15a. Về sông Tô lịch, xem chú thích (9) truyện Ðạo Hạnh.
(2)
Sông Ðiềm hay là Ðiềm Giang, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một tài liệu nào khác nói tới, nhưng nghi nó có thể chỉ sông Ðuống, tức sông Thiên đức cũ. Tuy nhiên, sông Thiên đức chưa từng có tên sông Ðiềm, như tài liệu hiện tại cho biết. Có thể sông Ðiềm là sông Thiên đức hay một nhánh nó chảy qua làng Vân điềm huyện Từ Sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ làng Vân điềm, hạt Ðông ngạn như Nguyễn Quán khoa 1595, Nguyễn Nghi khoa 1619…
(3)
Ao Phù chẩn chắc nằm tại làng Phù chẩn huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Bởi vì Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 có ghi một số người đậu các khoa tiến sĩ đến từ làng Phù chẩn, huyện Ðông ngạn như Trần Cô trạng nguyên khoa 1266, Nguyễn Thì Phùng tiến sĩ khoa 1508, Nguyễn Niệm và Nguyễn Hiên khoa 1588, Nguyễn Xuân Chỉ khoa 1637, Nguyễn Ðình Bảng khoa 1670 v.v… Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Từ miếu, có ghi miếu vua Lê Uy Mục ở xã Phù chẩn, huyện Ðông ngạn.
Những ao khác đào tại vùng xung quanh Phù chẩn này, ngày nay ta không biết và chắc không bao giờ ta biết, vì truyện nói "La Quý khuyên Khúc Lãm lấp chúng lại như xưa".
(4)
Cây bông gạo chùa Châu minh này chắc là cây bông gạo làng Diên uẩn, nơi đã bị sét đánh thành bài sấm tuyên truyền cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn, mà Ðại Việt sử lược 2 tờ 1a-b và Toàn thư B1 tờ 31a-32 đã chép lại…Xem chú thích (8) truyện Vạn Hạnh.
(5)
Nguyên văn:
"Ðại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Ðịnh kiên nhật xuất thanh".
Ðây là một bài thơ tuyên truyền cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Và nhà Lý quả ra đời vào tháng 10 năm Ðinh dậu Cảnh Thụy thứ hai (1009). Bài này do thế có thể sáng tác trước lúc Lý Công Uẩn lên ngôi không bao xa.
------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
Chữ THẬP 十, chữ BÁT 八, chữ TỬ 子 ghép lại thành chữ LÝ 李 (ám chỉ Lý Công Uẫn 李公蘊 )
Đây là cách nói ẫn ngữ, dùng phép chiết tự chữ Hán.