THẾ HỆ THỨ NĂM (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

THẾ HỆ THỨ SÁU (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

THẾ HỆ THỨ BẢY (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

THẾ HỆ THỨ TÁM (BA NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)


43.Thiền sư ÐỊNH KHÔNG (? – 808)

Chùa Thiền chúng (1), làng Dịch bảng, phủ Thiên Ðức. Người Cổ pháp (2), họ Nguyễn, mấy đời là vọng tộc. Sư là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc, người trong làng tôn thờ, đều gọi là trưởng lão.

Về già, Sư đến Pháp hội của Nam dương ở Long tuyền nghe giảng, hiểu được ý chỉ, do đó Sư phát tâm theo Phật.

Trong khoảng Ðường Trinh Nguyên (785-804), Sư lập chùa Quỳnh lâm ở làng mình. Khi mới đào đất đắp nền, gặp một lư hương và 10 cái khánh. Sư sai người đem xuống sông rửa. Một cái lặn mất đi, đến đáy sông mới dừng. Sư giải thích rằng: Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ (*), chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp (**), chữ thổ chỉ chỗ ta ở, chỉ đất đai làng này. Nhân đó, Sư đổi tên làng mình làm Cổ pháp {Tên cũ là Diên Uẩn}. Sư lại làm bài tụng rằng:

"Ðất bày pháp khí

Một món đồ ròng

Ðể Phật pháp được hưng long

Ðặt tên làng là Cổ pháp".
(***)

Sư lại nói:

Hiện ra pháp khí

Mười hai chuông đồng

Họ Lý làm vua

Ba phẩm thành công".
(****)

Sư lại nói:

"Mười cái xuống nước đất

Cổ pháp đấy tên làng

Gà sau tháng chuột ở (3)

Chính lúc Tam bảo hưng".
(*****)

Khi sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện dạy rằng:

"Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta.{Sau Cao Biền của nhà Ðường đến trấn yếm. Quả đúng} Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Ðinh thì truyền, nguyện ta mãn vậy".

Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi. Lúc ấy là năm Mậu tý Ðường Nguyên Hòa thứ 3 (808) (4). Thông Thiện dựng tháp ở phía tây chùa Lục tổ (5) và ghi lời phú chúc của Sư mà chôn dấu đi.


______________

Chú thích :

(1)
Cảm ứng xá lợi ký
do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 dẫn trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 có ghi chùa Thiền chúng như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào năm đó tại Giao châu. Thiền uyển tập anh nói dựng tháp nơi chùa Pháp vân, có lẽ hợp lý hơn. Làng Dịch bảng nay là làng Ðình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Ở làng này nay còn có chùa nào tên Thiền chúng hay không, chúng tôi hiện chưa biết.

(2)
Cương mục chính biên 2 tờ 6b3-6 nói: "Cổ pháp, tên châu, đời Ðinh về trước là châu Cổ lãm, đời Lê đổi Cổ pháp , đời Lý thăng làm phủ Thiên đức, đời Trần cải làm huyện Ðông ngạn. Ðời Hậu Lê nhân theo. Nay là huyện Ðông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Nhưng truyện đây nói Ðịnh Không "đổi tên làng mình thành Cổ pháp rồi chua thêm "tên cũ là Diên uẩn". Như vậy, Cổ pháp nguyên là tên một làng từ thời Ðịnh Không, sau đó tới thời Lê mới trở thành tên châu. Thực tế, ta không hiểu tại sao nếu Không đã đổi Diên uẩn thành Cổ pháp thì tại sao cho đến thời Lý Công Uẩn vẫn còn có tên Diên Uẩn. Viết về việc sét đánh thành sấm báo hiệu sự lên ngôi của Uẩn, Toàn thư B1 tờ 31a7-8 nói: "Nguyên trước cây bông gạo làng Diên uẩn, Cổ pháp bị sét đánh", trong khi đó Ðại Việt sử lược 2 tờ 1a9 chép: "Trong làng vua ở có cây bông gạo bị sét đánh". Rõ ràng làng của Lý Công Uẩn ở có tên Diên uẩn, và đây là vào thời Lý. Thế sao, ở đấy truyện bảo Không đổi tên Diên uẩn, thành Cổ pháp?. Dầu sao đi nữa Diên Uẩn cũng là Cổ pháp, và Cổ pháp là làng Ðình bảng hay làng Dịch bảng sau này.

Cương mục chính biên 2 tờ 7b2, nhân chú về chùa làng Cổ pháp, nói "chùa Cổ pháp (******) ở tại xã Ðình bảng, huyện Ðông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Làng Cổ pháp của Ðịnh Không do đó là làng Ðình bảng, huyện Từ sơn hiện nay.

Trong cả bản in đời Lê lẫn đời Nguyễn chỉ ghi "Ðịnh Không cổ nhân", nhưng chúng tôi ở đây đã thêm chữ pháp thành "người Cổ pháp", bởi vì truyện Ðịnh Không đây rõ ràng nói Không người Cổ pháp.

(3)
Nguyên văn: Kê cư loan nguyệt hậu. "Loan nguyệt" nghi là một viết sai của chữ thử nguyệt, mà sau này La Quý dùng trong một câu tương tự: "Thố kê thử nguyệt nội", để nói tới việc Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 11, tức tháng con chuột, tức thử nguyệt của năm con gà, tức năm Kỷ dậu Cảnh Thụy thứ 2 (1009). Chúng tôi dựa vào cách hiểu đây và dịch là "tháng chuột". Chữ loan và chữ thử, tự dạng chúng khá giống nhau.

(4)
Nguyên văn: Ðường Nguyên Hòa tam niên bính tý. Nhưng Ðường Nguyên Hoà năm thứ 3, cứ Cựu Ðường thư thì phải là năm Mậu tý, chứ không phải Bính tý. Chữ Bính chắc chắn là một viết lộn của chữ Mậu.

(5)
Chùa Lục tổ đây tức cũng ở làng Dịch bảng.

----------------

Chú thích của hungcom :


(*)
Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ :


(**)
chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp :


(***)

Điạ trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng
Trí phật pháp chi hưng long
Lập hương danh chi Cổ Pháp.


(****)
Pháp lại xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Lý thị hưng vương
Tam phẩm thành công.


(*****)

Thập khẩu thủy thổ khứ
Cổ Pháp danh hương hiệu
Kê cư thử nguyệt hậu
Chính thị hưng tam bảo.


(******)


Hình ảnh chùa Cổ Pháp :



Chùa Cổ Pháp, còn gọi là chùa Dặn, nơi nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dưỡng Lý Công Uẩn từ tuổi lên 3