50.THIỀN SƯ ÐỊNH HUỆ


Chùa Quang hưng, làng An trinh, phủ Thiên đức, người Cảm điền, Phong châu, họ Khúc. Ban đầu cùng với Vạn Hạnh thờ Thiền Ông làm thầy, rồi nhận được tâm ấn.

Ðến khi tịch, bèn truyền pháp mình cho đệ tử là Lâm Huệ Sinh.{Cứ Nam tôn tự pháp đồ thì nói là pháp tự của Vạn Hạnh. Sợ e sai. Nay theo y bản truyện}.


__________________________________________________ _________________


51.THIỀN SƯ ÐẠO HẠNH (? – 1117)


Chùa Thiên phúc, núi Phật tích, họ Từ, tên Lộ, cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan đô án, thường đi học tại làng An lãng, lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ, sư là con nàng Tăng Thị vậy.

Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, lại có hành động nói năng người đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. Ðêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Thân phụ thường trách Sư biếng nhác.

Một hôm, ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống, Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn.

Từ đấy ông cụ không lo nữa.

Sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch liên(1). Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu(2). Hầu nhờ pháp sư Ðại Ðiên(3) dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô lịch(4). Xác trôi đến cầu Quyết(5) là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà chỉ tay vào nhà, suốt ngày không đi. Hầu sợ, đi báo cho Ðại Ðiên. Ðại Ðiên đến nơi, đọc một câu kệ: " Tăng giận không cách đêm". Ðọc xong, xác đáp lại trôi đi.

Sư nghĩ cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm, Sư rình Ðiên đi khỏi nhà, muốn đánh lén, chợt nghe trên không có tiếng la: "Ðừng, đừng! Sư sợ hãi vứt cây mà chạy. Sư muốn sang Ấn độ, tìm học phép linh dị để chống lại Ðại Ðiên. Ði đến xứ Mọi răng vàng(6), đường xá hiểm trở, Sư bèn trở về ẩn tại núi ấy, hằng ngày chuyên tụng chú Ðại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm Sư thấy thần nhân đến trước mặt mình nói: "Ðệ tử là Tứ trấn Thiên vương(7), cảm công đức trì xứ của Sư, nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo". Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha nên mới đến bến Quyết, cầm gậy, thử ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến cầu Tây dương (8) dừng lại. Sư mừng nói: "Pháp ta thắng rồi". Bèn đến thẳng chỗ Ðại Ðiên. Ðiên thấy nói:

"Ngươi không nhớ việc ngày trước sao?".

Sư ngửa mặt lên nhìn trời, lặng lẽ không thấy gì, nhân đó đánh mạnh, Ðại Ðiên phát bệnh chết.

Từ đấy oán xưa rửa sạch, niệm tục tiêu tan. Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái bình(9), Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ:

"Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng

Chẳng hay đâu chốn, ấy lòng chân

Nguyện xin chỉ rõ bày phương tiện

Thấy trọn như như khỏi nhọc tìm".
(*)

Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ:

"Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu

Ở trong tỏ rõ ý thiền nao

Bồ-đề đạo đó hà sa cõi

Muốn tới còn xa mấy vạn sào".
(**)

Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp vân hỏi: "Thế nào là chân tâm?".

Phạm hỏi lại: "Cái gì chẳng phải là chân tâm?".

Sư tỉnh ngộ, nói: "Làm thế nào bảo đảm?".

Phạm đáp: "Ðói ăn, khát uống".(10)

Sư lễ tạ, từ giã ra đi. Từ đấy pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể sai rắn núi, thú rừng, họp nhau đến chịu thần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa, đọc chú dùng nước chữa bệnh, không gì là không tức khắc ứng nghiệm(11).

Có vị Tăng hỏi: "Ði, đứng, nằm, ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm Phật?".

Sư dạy bài kệ:

"Tạo có, mảy may có

Làm không, tất cả không ,

Có không như trăng nước,

Chớ vướng có không không".
(***)

Lại bảo:

"Trời trăng đỉnh núi cao

Người người mất hết châu

Kẻ giàu có ngựa tốt

Ði bộ chẳng cỡi câu".
(****)

Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng. Tháng 2 năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 3 (1112), người phủ Thanh hóa dâng sớ tâu rằng: "Trên bãi cát biển, có đứa bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết nói, tự xưng con đích của bệ hạ tên là Giác Hoàng. Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không biết".

Vua sai trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa Báo thiên. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập làm hoàng thái tử. Quần thần hết sức can gián, cho là không được, và nói: "Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung cấm, sau mới có thể lập". Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác thai.

Sư nghe chuyện, riêng nói rằng: "Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm. Ta há nhẫn tâm, ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối chánh pháp sao!".

Nhân thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết ấn, treo trên mái diềm. Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh, nói với mọi người: "Ðầy khắp cả nước đều có lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh, mà sợ không có đường vào".

Vua nghi Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng thánh, hợp quần thần nghị tội. Khi Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Sư kêu van: "Xin hết sức cứu bần tăng một phen, may thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để đền ơn".

Hầu nhận lời. Ðến lúc hội nghị, quần thần đều nói: "Bệ hạ vì không có con, nên mới cho Giác Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liễu lĩnh dám làm chú giải, kết án tử hình, để tạ lòng thiên hạ".

Hầu chậm rãi thưa: "Nếu Giác Hoàng có thần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải cũng không làm hại được. Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy. Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục Lộ, thì đừng cho y thác sinh’.

Vua xá tội(12).

Sư đến Nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư lén nhìn phu nhân. Phu nhân nổi giận, đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu. Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt cuộc không hỏi han gì. Phu nhân từ đó biết mình có thai. Sư dặn Hầu rằng: "khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết".(13)

Ðến ngày đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay quần, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: :Túc nhân ta chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm quốc vương(14). Ðến khi thọ chung, lại làm thiên tử trên cõi trời Tam thập tam. (15). Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy ta mới vào Niết bàn, không ở cõi sinh diệt nữa".

Ðồ chúng nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ. Sư nói bài kệ rằng:

"Thu sang không báo nhạn về đây

Cười nhạt người đời thương xót thay

Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái

Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay".
(*****)

Nói xong kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn.
(16) (17) (18)

_____________

Chú thích :

(1)
Truyện Từ Ðạo Hạnh trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 28-31 chép hoàn toàn giống truyện Từ Ðạo Hạnh ở đây, nhưng sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng", nó lại thêm 7 chữ "Bạch liên khoa, vị cơ phụ Vinh", trước khi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu". Truyện Ðạo Hạnh ở đây, sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng", lại bỏ trống một đoạn đúng chỗ cho 7 chữ, rồi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu". Chúng tôi nghĩ rằng khoảng trống 7 chữ đây đúng là chỗ của 7 chữ hiện còn chép trong Lĩnh nam trích quái mà để bản của bản in Thiền uyển tập anh năm 1715 đã bị rách hay mọt ăn mất, nên người hiệu đính cho bản in đây đã để trống đúng 7 chỗ cho những chữ mất đó. Ðây là một ưu điểm lớn của bản in năm 1715 giữa những ưu điểm khác của nó. Bản in đời Nguyễn không để một khoảng trống nào cả, nên dù có bản của Lĩnh nam trích quái chăng nữa, ta cũng không thể nào nhận ra khoảng đấy thiếu mấy chữ. Chúng tôi do thế đề nghị thêm 7 chữ trên vào chỗ trống ở tờ 53b10 của Thiền uyển tập anh, để cho ý nghĩa của câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng…" và câu "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu" ở trước và sau khoảng trống đấy được rõ hơn. Nếu chấp nhận, hai câu ấy bây giờ đọc: "Hậu ứng tăng quan thí trúng Bạch liên khoa. Vị cơ phụ Vinh dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu", mà ta có thể dịch thành: "Sau đó Sư ứng thi điện thí tăng quan, trúng khoa Bạch liên. Chẳng bao lâu, cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mích lòng Diên Thành Hầu…"

Khoa Bạch liên là khoa gì vào thời Lý, chúng tôi hiện chưa thể khảo được.

(2)
Diên thành hầu (? – 1117) là con của Lý Thánh Tôn và em của Nhân Tôn. Tính tình của vị hầu này chắc nóng nảy lắm. Ðại Việt sử lược 2 tờ 20a3 ghi lại một chứng sau: "Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 4 (1104), mùa thu tháng 9 ngày mồng một. Diên Thành Hầu lấy hốt đánh Trung Nghĩa Hầu ở điện Thiên an". Trung Nghĩa Hầu (? – 1117) cũng là con của Thánh Tôn và chắc là em của Diên Thành, và điện Thiên an là nơi thị triều của vua. Thế mà, giữa mặt bá quan văn võ, Diên Thành đã lấy hốt đánh Trung Nghĩa.