Tổng Quát


119. Ðể giải thích chi tiết về những tưởng niệm này, sau câu "Khi ấy tâm hành giả được sự chất trực, vì cảm hứng từ đấng Toàn giác", được nói thêm rằng: "Này Màhànàma, khi tâm của một thánh đệ tử chất trực thì ý nghĩa đem lại cảm hứng cho vị ấy, và sự áp dụng pháp làm cho vị ấy hân hoan. Do hân hoan sanh, hỷ sanh nơi vị ấy". (A. iii, 285).

Câu ý nghĩa đem lại cảm hứng cho vị ấy là sự hài lòng (hỷ túc) do ý nghĩa sau đây được gợi lên: "Ðức Thế tôn là như vầy vì người là bậc A-la-hán" (đoạn 2). Pháp đem lại cảm hứng cho vị ấy là nói đến hỷ túc do kinh điển đem lại. Sự thực hành pháp làm cho vị ấy hân hoan là nói đến cả hai thứ hỷ túc. (xem MA. I, 175)

120. Và ở trường hợp niệm thiên "có cảm hứng từ chư thiên", nghĩa là tâm khởi lên trong giai đoạn đầu, cảm hứng từ chư thiên hoặc tâm khởi lên trong giai đoạn sau cảm hứng từ những đức tính đặc biệt giống như đức chư thiên, đưa đến cảnh giới chư thiên (xem đ. 117)

121. Những tưởng niệm này chỉ thành công ở những thánh đệ tử... Vì những đức tính đặc biệt của đấng Thế tôn, của Pháp, của Tăng, chỉ rõ đối với những vị thánh đệ tử vì họ có giới không bị rách lủng, vá lốm đốm, có thí không ô nhiễm bởi xan tham, và có những đức tính tương tự với đức tính chư thiên.

122. Trong kinh Mahànàma (A. iii, 285), những tưởng niệm này được Thế tôn trình bày chi tiết chỉ cho một vị Dự lưu một chỗ trú khi vị này hỏi về một chỗ trú.

123. Cũng thế, trong kinh Godha chúng được giảng giải để dạy một Thánh đệ tử nên tịnh tâm mình nhờ phương tiện các tùy niệm, và do đó đạt đến những thanh tịnh cao hơn trong ý nghĩa tối hậu như sau: Ở đây này các tỷ kheo, một Thánh đệ tử niệm về đức Thế tôn như sau: "Ðức Thế tôn là như vậy vì Ngài đã thành mãn... Tâm vị ấy có sự chất trực khi tưởng niệm như vậy. Vị ấy đã từ bỏ, giải thoát, nổi lên khỏi tham dục, tức năm dục. Có những hữu tình đạt được thanh tịnh nhờ lấy niệm này làm chỗ trú" (A. iii, 321)