DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 597
  1. #1
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    BẢNG TRA CHỮ TẮT (LIST OF ABBREVIATIONS USED)



    A. : Anguttara Nikàya
    AA. : Anguttara Nikàya Atthakathà (Commentary) = Manorathapùranì
    Cp. : Cariyàpitaka
    Dh. : Dhammapada
    DhA. : Dhammapada Atthakathà (Commentary)
    Dhs. : Dhammasanganì
    DhsA. : Dhammsanganì Atthakathà (Commentary) = Atthasàlinì
    DhsAA. : Dhammasanganì Tìkà (Sub-commentary) = Mùla Tìkà (pt. I)
    Dhk. : Dhàtukathà
    D. : Dìgha Nikàya
    DA. : Dìgha Nikàya Atthakathà (Commentary) = Sumangalavilàsinì
    It. : Itivuttaka
    Jà. : Jàtaka (Fausboll's ed.)
    Kv. : Kathàvatthu
    Mv. : Mahàvamsa
    M. : Majjhima Nikàya
    MA. : Majjhima Nikàya Atthakathà (Commentary) = Papancasùdanì
    Miln. : Milinda-panhà
    Netti. : Netti-pakarana
    Nd1. : Mahà Niddesa
    Nd2. : Cùla Niddesa (Siamese ed.)
    Ps. : Patisambhidàmagga
    PsA. : Patisambhidàmagga Atthakathà (Commentary) = Saddhammappakàsinì (Sinhalese Hewavitarne ed.)
    Ptn1. : Patthàna, Tika Patthàna
    Ptn2. : Patthàna, Duka Patthàna (Siamese and Burmese eds.)
    Pm. : Visuddhimagga Atthakathà (Commentary) = Mahà Tìkà (Vis. Chs. I to XVII Sinhalese Vidyodaya ed.; Chs. XVIII to XXIII Burmese ed.)
    Pe. : Petakopadesa
    Pv. : Petavatthu
    S. : Samyutta Nikàya
    SA. : Samyutta Nikàya Atthakathà (Commentary) = Sàratthappakàsinì
    Sn. : Sutta-nipàta
    SnA. : Sutta-nipàta Atthakathà (Commentary) = Paramatthajotikà
    Thag. : Thera-gàthà
    Ud. : Udàna
    Vbh. : Vibhanga
    VbhA. : Vibhanga Atthakathà (Commetary) = Sammohavinodanì
    VbhAA. : Vibhanga Tìkà (Sub-commentary) = Mùla-Tikà (pt. 2)
    Vv. : Vimàna-vatthu
    Vin. i. : Vinaya Pitaka (3) - Mahàvagga
    Vin. ii. : Vinaya Pitaka (4) - Cùlavagga
    Vin. iii. : Vinaya Pitaka (1) - Suttavibhanga 1
    Vin. iv. : Vinaya Pitaka (2) - Suttavibhanga 2
    Vin. v. : Vinaya Pitaka (5) - Parivàra
    Vis. : Visuddhimagga (P.T.S. ed. and Harvard Oriental Series ed.)


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #2
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    5. Ở đây, thanh tịnh nên hiểu là Niết bàn. Niết bàn không có các cấu uế, nên hoàn toàn thanh tịnh. Thanh tịnh đạo là con đường dẫn đến sự thanh tịnh ấy, cách đến gọi là con đường. Tôi sẽ giải thích con đường đưa đến sự thanh tịnh ấy.

    6. Trong vài trường hợp, con đường dẫn đến thanh tịnh được dạy là do tuệ quán (về vô thường, khổ, vô ngã), như khi nói:

    Tất cả hành vô thường
    Với tuệ quán thấy vậy
    Ðau khổ được nhàm chán
    Chính con đường thanh tịnh.
    (Dh. 227)

    Trong vài trường hợp, được giảng do thiền-na và trí tuệ, như khi nói:

    Người có thiền có tuệ
    Nhất định gần Niết bàn
    (Dh.372)

    Khi thì được giảng là do nghiệp, như khi nói:

    Nghiệp, minh và chánh pháp
    Giới - tối thượng sanh mạng
    Chính nhờ các pháp trên
    Khiến chúng sinh thanh tịnh
    Không phải do giai cấp
    Không phải do tài sản
    (M. iii, 262)

    Khi thì được giảng là do Giới, v.v..., như khi nói:

    Vị luôn luôn trì giới
    Trí tuệ khéo định tĩnh
    Chí siêng năng dõng mãnh
    Vượt bậc lưu khó vượt

    Và có trường hợp, thanh tịnh đạo được giảng là do bốn niệm xứ v.v... như khi nói: "Nầy các tỷ kheo, con đường này là con đường duy nhất để thanh tịnh các hữu tình.... để chứng Niết bàn, đó là bốn Niệm xứ". (D. ii, 290). Cũng tương tự với bốn chánh cần v.v... Nhưng để trả lời câu hỏi này, thì con đường thanh tịnh được giảng là Giới, Định và Tuệ.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #3
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    7. Ðây là bình chú vắn tắt về bài kệ. Trú giới là đứng vững trên đất giới. Chỉ có người thực sự thành tựu trọn vẹn giới, mới được gọi là "trú giới". Cho nên câu này có nghĩa: trú giới do thành tựu viên mãn giới. Người là một hữu tình. Có trí có tuệ do nghiệp sinh, nhờ một kiết sanh có ba nhân (là vô tham, vô sân và vô si). Tu tập tâm và tuệ: tu tập cả định và tuệ. Tâm ở đây chỉ Định, còn tuệ là Quán. Nhiệt tâm (àtàpin): có nghị lực. Nghị lực được gọi là tinh cần hay nhiệt tâm (àtàpa) với ý nghĩa đốt cháy những phiền não. Vì có nghị lực, nên vị ấy nhiệt tâm tinh cần.

    Thận trọng: Là có tuệ giác, chỉ tuệ phòng hộ. Trong câu trả lời, tuệ được nhắc đến ba lần: lần đầu (có trí) là tuệ bẩm sinh, lần thứ hai là tuệ với nghĩa "quán", còn lần này chỉ tuệ "phòng hộ" hướng dẫn mọi công việc.

    Tỷ kheo (bhikkhu) là kẻ thấy sự khủng khiếp (bhayam ikkhati) trong vòng luân hồi sinh tử. Thoát triền: như người đứng trên đất, dùng con dao bén có thể phát quang một bụi tre chằng chịt, cũng thế, vị tỷ kheo có được sáu yếu tố này là giới, định tuệ, gồm ba thứ nói trên, và sự nhiệt tâm tinh cần - đứng trên đất giới, dùng tay tuệ (phòng hộ) nỗ lực bằng tinh cần, cầm dao tuệ (bẩm sinh) được mài sắc trên đá thiền định -có thể tháo gỡ, cắt đứt, phá huỷ tất cả các dây nhợ tham dục. Chính ở giai đoạn này, thuộc Ðạo lộ, vị ấy mới được gọi là đã "thoát triền": Ở sát na chứng quả, vị ấy đã tháo gỡ xong sự trói buộc và xứng đáng sự cúng dường tối thượng của thế gian và chư thiên, nên Thế tôn nói:

    Người trú giới có trí
    Tu tập tâm và tuệ
    Nhiệt tâm và thận trọng
    Tỷ kheo ấy thoát triền.


    Ở đây, không có gì vị ấy phải làm về trí tuệ bẩm sinh nhờ đó mà vị ấy được gọi là người "có trí", bởi vì trí tuệ này đã an trú thuần nhờ ảnh hưởng của nghiệp đời trước. Song nhiệt tâm và thận trọng có nghĩa rằng, bằng nghị lực kiên trì như đã nói, và bằng hành vi đầy giác tỉnh với tuệ quán, vị ấy cần phải - khi đã an trú trong giới - tu tập, phát triển Chỉ và Quán được mô tả bằng từ ngữ Tâm và Tuệ. Ðây là cách đức Thế tôn chỉ rõ đạo lộ đưa đến thanh tịnh dưới những đề mục Giới, Ðịnh và Tuệ.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #4
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    9. Từ trước đến đây, những điều được nêu lên là Ba môn học, giáo lý tốt đẹp trong ba phương diện, điều kiện cần thiết để chứng ba minh v.v.. Sự tránh hai cực đoan và tu tập trung đạo, cách vượt khỏi những đoạ xứ, đoạn trừ ô nhiễm dưới ba khía cạnh, sự đề phòng vi phạm, sự thanh lọc ba thứ nhiễm ô, và lý do đạt đến những quả Dự lưu v.v... Nêu lên như thế nào?

    10. Ở đây, sự tu tập tăng thượng giới được nêu bằng Giới; tu tăng thượng tâm bằng Ðịnh; và tu tăng thượng trí tuệ bằng Tuệ

    Sự tốt đẹp của giáo lý ở chặn đầu được nêu bằng Giới, do đoạn kinh: "Và gì là khởi điểm của các thiện pháp? Chính là giới hoàn toàn thanh tịnh". (S. V, 143) và do Pháp cú 183 "Không làm mọi điều ác". Giới là khởi đầu của giáo lý. Và giới tốt đẹp, vì nó đem lại những đức đặc biệt là bất hối, v.v... Sự tốt đẹp của giáo lý ở chặn giữa được nêu bằng Ðịnh. Do Pháp cú 183 "Không làm mọi điều ác", định là chặn giữa của giáo lý: "Thành tựu các hạnh lành".

    Không làm mọi điều ác
    Thành tựu các hạnh lành
    Tâm ý giữ trong sạch
    Chính lời chư Phật dạy.


    Và Ðịnh tốt đẹp, vì đem lại các đức đặc biệt như thần thông v.v... Sự tốt đẹp của giáo lý ở chặn cuối được nêu bằng Tuệ. Do câu "Tâm ý giữ trong sạch. Chính lời chư Phật dạy". (Dh. 183) và vì tuệ là cao điểm của nền giáo lý, nên Tuệ là chặn cuối. Tuệ tốt đẹp vì đem lại đức bình thản đối với những điều khả ý và bất khả ý. Như kinh dạy:

    Như núi đá kiên cố
    Không bị gió lay động
    Huỷ báng hoặc tán dương
    Không lay động bậc trí.
    (Dh. 81)

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #5
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts


    11. Cũng thế, điều kiện cần thiết để chứng ba minh được nêu bằng Giới. Vì nhờ sự hỗ trợ của Giới viên mãn mà người ta đắc ba minh. Ðiều kiện cần thiết để đắc sáu thông được nêu bằng Ðịnh, vì chính nhờ sự hỗ trợ của định viên mãn mà đạt đến sáu thông. Ðiều kiện cần thiết để đắc bốn vô ngại giải được nêu bằng Tuệ, vì chính nhờ sự hỗ trợ của tuệ viên mãn mà được bốn vô ngại giải.

    [Chú thích: Ba minh: túc mạng minh, nhớ được các đời trước; thiên nhãn minh: biết sự chết và tái sinh của các hữu tình; lậu tận minh, đoạn trừ tất cả lậu hoặc. (M. i, 22-3). Bốn vô ngại giải là nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, từ vô ngại, biện tài vô ngại (A. ii, 160).]

    Sự tránh xa cực đoan mê đắm dục lạc được nêu bằng Giới cực đoan ép xác khổ hạnh được nêu bằng Ðịnh, và sự tu tập trung đạo được nêu bằng Tuệ.

    12. Cũng vậy, Giới được nêu làm phương tiện để vượt khỏi các đạo xứ, Ðịnh để vượt khỏi các dục, và tuệ để vượt tất cả hữu. Lại nữa, sự từ bỏ những ô nhiễm do thay thế những pháp ngược lại là Giới, do nhiếp phục là Ðịnh, do đoạn tận là Tuệ.

    13. Ðề phòng vi phạm những điều ô nhiễm là nhờ Giới, đề phòng các ám ảnh của ô nhiễm là nhờ Ðịnh, đề phòng các tùy miên (khuynh hướng nội tại đưa đến ô nhiễm) là nhờ Tuệ.

    Sự thanh lọc những ô nhiễm do tà hạnh là nhờ Giới; thanh lọc những ô nhiễm do dục tham là nhờ Ðịnh; và thanh lọc những ô nhiễm do tà kiến là nhờ Tuệ.

    14. Lý do đắc quả Dự lưu và Nhất lai là Giới, quả Bất hoàn là Ðịnh và quả A-la-hán là Tuệ. Vì bậc Dự lưu được gọi là người "thành tựu viên mãn các phẩm loại của giới", bậc nhất lai cũng vậy, bậc bất hoàn được gọi là "viên mãn định" và A-la-hán là bậc "tuệ viên mãn".

    15. Ðến đây, chín nhóm "ba pháp" đã được nêu lên về các đức đặc biệt của giới định tuệ, đó là ba môn học, giáo lý tốt đẹp ở ba phương diện, điều kiện cần để chứng ba minh, sự tránh hai cực đoan và tu tập trung đạo, cách vượt khỏi đoạ xứ, khỏi dục và khỏi hữu, sự từ bỏ ô nhiễm ở ba bực, sự đề phòng vi phạm, sự thanh lọc ba thứ nhiễm ô và lý do đắc các quả.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #6
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts




    II. Giới

    16. Mặc dù thanh tịnh đạo được nêu như trên, với ba đề mục Giới, Ðịnh và Tuệ, mỗi thứ có những đức đặc biệt khác nhau, song sự chỉ dẫn ấy cũng còn quá vắn tắt, không đủ giúp ích mọi người, nên có loạt vấn đề sau nói về Giới trước:

    (i) Giới là gì?
    (ii) Giới có nghĩa là gì?
    (iii) Gì là đặc tính, nhiệm vụ, tướng trạng và nhân gần của giới
    (iv) Gì là lợi ích của giới?
    (v) Có mấy loại giới?
    (vi) Cái gì làm giới ô nhiễm?
    (vii) Cái gì làm giới thanh tịnh?

    17. Ðây là giải đáp.

    (i) Giới là gì? Ðó là các pháp khởi từ tử tâm sở (cetanà) hiện hữu nơi một người từ bỏ sát sinh, v.v... Hay nơi một người thực hành viên mãn các học giới (vatta). Patisambhidà nói: "Giới là gì? có giới là tư tâm sở (cetanà), có giới là các tâm sở, thọ, tưởng, và hành (gọi chung là cetasika), có giới là sự chế ngự, có giới là không vi phạm". (Ps. i, 44).

    Ở đây, Giới theo nghĩa tư tâm sở, là ý chí (tác ý) có mặt nơi người từ bỏ sát sinh, v.v... Hay nơi người thực hành viên mãn các giới. Giới theo nghĩa thọ, tưởng, hành là sự kiêng giữ nơi người từ bỏ sát sinh, v.v... Lại nữa, Giới tư tâm sở là bảy tác ý đi kèm bảy trong mười nghiệp nơi một người từ bỏ sát sinh, v.v.. Giới thọ, tưởng, hành tâm sở là ba pháp còn lại gồm vô tham, vô sân và chánh kiến, như kinh nói: "Từ bỏ tham, vị ấy an trú với tâm vô tham". (D. i, 71)

    18. Giới theo nghĩa chế ngự là sự chế ngự theo năm cách: Chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha chế ngự bằng tỉnh giác, chế ngự bằng tri kiến, chế ngự bằng kham nhẫn và chế ngự bằng tinh tiến. Chế ngự bằng Giới bổn là: "Vị ấy được trang bị đầy đủ với sự chế ngự của Giới bổn Pàtimokkha". (Vbh. 246); chế ngự bằng chánh niệm tỉnh giác là: "vị ấy hộ trì nhãn căn, sống với sự ch? ngự nhãn căn". (D. i, 70) Chế ngự bằng tri kiến là như đức Thế tôn dạy:

    Những dòng thác chảy trên đời
    Này Ajita, được ngăn chận là nhờ chánh niệm.
    Ta tuyên bố sự chế ngự những bộc lưu
    Do tuệ, chúng bị chận đứng.
    (Sn. 1035)

    Cách sử dụng bốn vật dụng cũng được bao gồm trong sự chế ngự này. Nhưng chế ngự bằng kham nhẫn thì như kinh dạy: "Vị ấy là người kham nhẫn lạnh, nóng". (M. i, 10) Và chế ngự bằng tinh tấn là "Vị ấy không chấp nhận một ý tưởng thuộc tham dục khi nó khởi lên". (M. i, 11) ở đây, thanh tịnh sinh mạng được bao gồm. Vậy sự chế ngự gồm năm phần ấy và sự kiêng giữ nơi những thiện nam, thiện nữ biết sợ điều ác mỗi khi gặp cơ hội vi phạm, đều gọi là Giới theo nghĩa chế ngự. Giới theo nghĩa không phạm là sự không vượt qua, bằng thân hoặc lời, các giới điều đã thọ.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #7
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts



    19. (ii) Giới Có Nghĩa là Gì? Giới, Sìla, được gọi như thế là vì nói có nghĩa kết hợp (Sìlana). Kết hợp có hai nghĩa: một là phối hợp (samàdhàna), chỉ sự không bất nhất trong ba nghiệp thân, lời và ý nhờ đức hạnh; hai là nâng lên (upadhàrana), nghĩa là nền tảng (àdhàra) vì giới là nền tảng cho những thiện pháp. Những người hiểu ngữ nguyên chỉ chấp nhận hai nghĩa này, song cũng có những người luận về ý nghĩa của giới là cái đầu (siras) là mát mẻ (sìtala).

    20. (iii) Gì Là Ðặc Tính, Nhiệm Vụ, Tướng Trạng Và Nhân Cần Của Giới?

    Ðặc tính của giới là phối hợp
    Dù phân tích nhiều cách
    Cũng như "thấy được" là đặc tính của Sắc.
    Dù phân tích nhiều cách.


    Như đặc tính "có thể trông thấy" là đặc tính của sắc xứ, dù phân tích thành những loại xanh, vàng, v.v... Vì dù có phân ra như vậy, sắc pháp cũng không vượt ngoài tính "thấy được". Cũng thế, sự kết hợp - gồm hai nghĩa "phối hợp" và "nền tảng" - ở trên là đặc tính của giới, dù chia nhiều loại như tư tâm sở, v.v.. Vì dù có chia ra những loại như vậy, giới cũng không ra ngoài hai đặc tính là phối hợp và nền tảng (các thiện pháp).

    21.

    Trong khi đặc tính của giới là như vậy,
    Nhiệm vụ của nó gồm hai nghĩa:
    Hành động để chấm dứt tà hạnh
    Và sự thành tựu kể như đúc
    Không lỗi nơi người có giới.


    Bởi thế, khi gọi là giới, cần hiểu rằng nó có nhiệm vụ chận đứng tà hạnh là nhiệm vụ (hay bản chất, rasa) của nó theo nghĩa hành động, và bản chất không lỗi kể như nhiệm vụ nó trong nghĩa thành tựu. Vì ở đây chính hành động (kicca) hoặc sự thành tựu (sampatti) được gọi là nhiệm vụ.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 2 người đọc bài này. (0 thành viên và 2 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •