Thế Gian Giải (Hiểu rõ thế gian)
36. Ngài là đấng biết rõ thế gian, vì Ngài đã biết cuộc đời trên mọi phương diện. Vì đức Thế Tôn đã kinh nghiệm, biết và thâm nhập thế gian về mọi mặt đặc tính riêng biệt của nó, sự sinh khởi của nó, sự chấm dứt của nó, như được nói: "Hành giả, có một chỗ tận cùng thế giới ở đây người ta không sanh, không già, không chết, không tái sinh, có thể được biết đến hay thấy hay đi đến bằng du lịch, điều ấy ta không tuyên bố. Tuy nhiên ta cũng không nói rằng có sự chấm dứt khổ mà không cần đi đến tận cùng thế giới. Ðúng hơn trong cái thức của nó, mà ta công bố có thế giới, sự sinh khởi của thế giới, sự chấm dứt của thế giới, và con đường đưa đến sự chấm dứt.
Bộ hành không đạt được
Tận cùng của thế giới
Không đạt thế giới tận,
Không phải không thoát khổ,
Do vậy, bậc hiền thiện,
Ðạt đến thế giới tận,
Phạm hạnh được viên thành
Với tâm tư định tĩnh
Biết được thế giới tận,
Không ước vọng đời này
Không ước vọng đời sau (S. i, 69)
37. Lại nữa, có ba thế giới: thế giới các hành, thế giới của hữu tình và thế giới của xứ sở.
Ở đây trong đoạn "Một thế giới: mọi hữu tình tồn tại nhờ thức ăn" (Ps. i, 122), đây có nghĩa là thế giới của các hành. Trong đoạn: "Thế giới là trường cửu" hay "Thế giới không trường cửu (M. i, 426) là thế giới các hữu tình trong đoạn kinh:
"Như nhật nguyệt lưu chuyển
Sáng chói khắp mười phương
Như vậy mười phương giới
Dưới uy lực của ngươi (M. i, 328)
Ðó là thế giới của xứ sở. Ðức Thế Tôn cũng đã biết thế giới ấy về mọi phương diện.
38. Cũng vậy, do những lời: "Một thế giới, mọi loài hữu tình đều tồn tại nhờ thức ăn. Hai thế giới: danh và sắc. Ba thế giới: ba loại thọ. Bốn thế giới: bốn loại thức ăn. Năm thế giới: năm uẩn kể như năm đối tượng chấp thủ. Sáu thế giới: sáu nội xứ. Bảy thế giới: bảy thức. Tám thế giới: tám cảnh giới thế gian (wordly states). Chín thế giới: chín chỗ ở của hữu tình. Mười thế giới: mười xứ. Mười hai thế giới: mười hai xứ. Mười tám thế giới: mười tám giới". (Ps. i, 122) thế giới các hành này được ngài biết trong mọi phương diện.