Ngày 30 Décembre 1936 – 17-11-â.l.
Y lệ. Không chi lạ. Nay Sư trưởng đã hết cảm. Tự đi điểm tâm. Khi về, phút Sư đặng thơ Ceylon. Thầy bèn thuật cho bần đạo nghe rằng : Chúng đệ tử nơi chùa Sư gởi thơ mời Sư về sớm sớm viếng tự. Thầy nói có lẽ trong mùa nực tới sẽ đi và đem bần đạo đi cho biết chùa và muốn ở lại chùa cai quản giùm cho Sư thì rất tốt.
Ngày 31 Décembre 1936 – 18-11-â.l.
Y lệ. Trong lúc sớm lên chùa lau chùi nơi chánh điện, sửa soạn nhang đèn cho Đại chúng, nhựt lệ triêu thời. Phút thầy Chánh từ hàng lên gặp bèn thẳng vào Chánh điện nói rằng : Sư ngày mai nghỉ để đạo khác thế cho Sư một ít lâu cho khỏe, cứ làm hoài, tôi không thấy chư Đạo nào làm cả. Bèn căn dặn đôi ba phen rồi lễ Phật.
Ngày 1er Janvier 1937 – 19-11-â.l.
Y lệ, nay nghỉ công quả chánh điện, đoạn lo việc khác. Triêu thời rồi xuống trù phòng lấy bát cúng Phật triêu thực. Mười giờ đặng thơ Thị-Cảnh, xem thơ “Hội ý” bắt nực cười cho cái tu nầy nhiều Ma-vương quyến thuộc ghẹo tâm, khêu lửa sân-hận, phiền-não, nhưng với ai kìa, chớ với Bần-đạo vẫn là giọt cam-lồ rưới tâm rất mát mẻ. Kẻ chỉ lỗi là thầy, nhớ hoài lời Phật dạy : Cả thảy chúng sanh là cha mẹ, thế thì bần đạo nhìn cả thảy lời xuất khẩu của người như lời cha mẹ dạy con, rầy con, quở con, nên vui lòng cam thọ. Có chi lạ cái cung kỉnh là phận sự của con cái. . . . . . .
Minh hà tâm, kiến hà tánh ?
Kỳ tâm như hà ?
Thanh, huỳnh, xích, bạch dã ?
Phương, viên, trường, đoản dã ?
Ngày 2 Janvier 1937 – 20-11-â.l.
Y lệ, triêu thời đọc tụng rồi công quả quanh chùa cho bớt lạnh vì lúc nầy Sarnath đã lạnh lung rồi, tuy không sánh Tibet chớ cũng hơn các miền Ấn-độ. Sớm mơi làm công việc chút ít mới quên lạnh và đặng máu chạy đều, gân cốt giãn.
Chiều trả lời cái thơ của cô phán Nhung.
Dịch kệ trong kinh Phật tiền kiếp trong bài : The Kind Brahma datta :
Triếu kẻ lòng nhơn ấy lẽ thường,
Khác nào lấy phải đối người thương.
Lý nhiên, nhơn-đạo trong đời vẫn,
Nhưng thế mà hay chửa đủ đường.
Đối quấy trả lành thế mấy ai,
Trở yêu kẻ nghịch trí nên tài.
Không nêu hạnh cả thuần thuần tánh,
Công đức chêm cao phước lộc dày.
“Bổn vô kiêm hữu”.
Ngày 3 Janvier 1937 – 21-11-â.l.
Y lệ, tụng niệm triệu thời rồi công quả quanh chùa. Trưa ngọ rồi đi xuống nhà thuốc thí của hội hiệp cùng Shanada học. Buổi chiều đi lên mộ thời trên chùa phút gặp huynh Ưu-bà-tắc Ceyloniste dọc đường, huỷnh hỏi : chừng Sư cả đi về Ceylon, thầy chắc cũng đi cùng Sư cả hé ? – Phải, vì ngài có hứa đem tôi đi đến Quốc-độ Ceylon lễ bái chư tự và xá-lợi Phật (răng của Phật tổ tại Ceylon) và cho biết xứ ấy.
Đi đến sân chùa xảy gặp Chánh-từ-hàng, thì huynh cư-sĩ trăm lia với ngài, Ngài day lại tôi rằng : Thầy ở luôn khi tại Sarnath, đừng đi đâu cả. Bạch : bần-đạo sẽ đi Ceylon rồi trở lại. – Vậy thì đặng, đừng ở luôn Ceylon.
Đoạn chuyện vãn chút chập kế tới giờ mộ thời.
“Đạo chỉ ư chí Thiện”.