Ngày 3 Novembre 1936 – 20-9-â.l.

Sáng lo trà bột điểm tâm, 8 giờ lên đường đi chừng một giờ thì đã tới bến đò Cha-sâm-chu-ủ-rê, xuống ngựa thì đã thấy hành khách tại bến đông vầy cũng chờ đò (Quận đi đến Nhạip-sóc-cô-trúc, đặng đi đò dọc, thì có đi ngang qua bến đò nầy, có chụp ảnh chỗ miễu nơi cầu). Đò cây bên bến bên chùa đã chèo qua, người ngựa xuống đò nhưng không chở một lần cho hết đặng, nên phân ra làm hai quận, bần đạo đi chuyến trước, xuống đò thấy nước dưới đáy đò đông cứng hết bọn chèo đò lo hốt tát nước. Rảo mắt xem chiếc đò thì thấy cách đóng chiếc đò cũng lạ hơn xứ Nam-việt, đẽo cây chuông như cột vuông chừng một tấc rưỡi rồi đâu ráp lại như cái thùng rectangle,(1) dài sáu, bảy thước, ngang lối ba thước, kịch cộm thô tháo, song xem sự chắc ước dùng vài chục năm, vì xứ ít cây nên phải dùng vậy. Còn đò, ghe nhỏ thì dùng toàn bằng da, may rồi trét chai theo lằn may. Issê rằng : Từ đây tới Pharijong thì đi đường phải lạnh lẽo vì gió lung lắm, tuyết lấp đường cao ước đôi ba tấc. Bần đạo khi đứng yên trong đò dựa be, đò chở xong bèn chèo qua bên kia bến. (Lúc đi nước đổ lung, lúc nầy nước kém rồi, nên cũng ít chảy mạnh, đò chèo qua ít bê.) Tới bến, lên ngựa chậm rãi đi đặng đợi tốp sau. Ngồi trên ngựa, gió thổi lạnh quá, bèn ngẫm nghĩ rằng : Lúc nầy tháng chín mà trời lạnh dường nầy, tuyết trên núi đã trùm các đảnh, nước theo triền, trong mấy ao vũng đều đông đặc hết, mấy cái suối nhỏ thì hai bên mé đã đông, chính giữa còn chảy, có nhiều suối vì nước chảy không mạnh nên bị gió thổi quá mà phải đông đặc tráng mặt, nước chảy dưới nước đá tráng mặt, người đi không bể, chỉ có vó ngựa mới nát lồi nước, nghĩ cho qua tháng chạp ắt sẽ đông đặc cả suối lớn nhỏ. Tưởng vậy bèn nhớ tới huynh Samdhen còn ở nán lại Lhassa, lúc nầy lạnh lẽo quá, và lúc về Phật đà lối tuần tháng 11 thì phải chịu biết bao sự lạnh lẽo lối dọc đường, tưởng vậy phút động tâm thương Đạo hữu Samdhen.

Lần lượt ngựa đếm bước, phút đã tới xóm Khempa tôm-pô (lúc đi, đi đò dọc nên không biết xóm nầy) thì mặt trời đã quá ngọ. Đây nhà cửa chật hẹp, không có nhà trạm, nên phải tạm nghỉ ngoài đồng ruộng. Bọn mã-tử đi sau chưa đến, thì mã tử già và Choundouss vào nhà quen của mã tử. (Choundouss cũng lạ đặc vì trước cũng không có đi đường nầy, nay mới lần nhứt.) Mướn nấu trà mua xăng đặng đợi tốp sau. Độ vài giờ thì Choundouss đem trà ra bảo : Thầy dùng bữa vì đã trễ quá rồi. Bần đạo bèn lấy bột và đồ ăn ra lo nhồi bột dùng bữa, đoạn lối 2 giờ thì tốp sau đã tới. Xúm xích kiếm chỗ an nghỉ. Đêm nay lớp gió, lớp sương lạnh thấu ruột, nhưng nhờ có cái áo lông che đắp nên ngủ cũng êm. Đi đường như thế, chỉ niệm Phật, chớ ngồi thiền định không đặng, hữu ngọa tư-duy tới muội tâm thì thôi. Khuya thức giấc tốc mền đi tiểu lạnh quá, không ngủ lại đặng, trùm mền nằm đó nghe ngựa khua chuông bèn động tâm thương đến thượng cầm hạ thú nơi xứ nầy, trong lúc đông thiên chịu sự lạnh lẽo rất khổ sở, tưởng vậy rồi nằm quán tưởng từ vô thỉ đến nay thọ không biết mấy lần thọ thân cầm thú, thì cũng phải vậy, rồi nhớ tới Phật tổ đã trong 500 kiếp lẫn lộn cùng cầm thú không biết mấy lần vì lòng mẫn độ chúng sanh mà quên điều cực khổ, nhẫn nhục hữu-tình và vô-tình. Quán vậy, phút cả thân đều hết lạnh.