Ngày 19 Octobre 1936 – 5-9-â.l.

Sáng thức dậy, khí hậu lạnh như đồng, tay chơn tê ngắt. Dòm ra ngoài sân, thấy trời mù mịt âm can, 7 giờ rưỡi thì tuyết xuống như hốt bông gòn rải, lần hồi sân trắng như rây vôi, che dù ra ngoài vòng thành đi tiểu, thấy đồng cỏ trắng phao. Mười giờ rưỡi hết mưa tuyết, ra ngoài xem bốn phía núi đều trắng xóa từ dưới tới chót, cả thành Lhassa trên nóc nhà, dưới đường cùng ngọn cây đều trắng lớp, chim bay nặng cánh, chó chạy tuyết đầy lưng, kẻ đi đường già trẻ không phân biệt, đầu đầu trắng phêu. Ôi ! hèn chi mà nhơn dân không dùng da thú sao đặng……. Nay mới đầy tháng chín mà lạnh dường nầy, tuyết sa dường ấy, qua tháng mười một và tháng chạp bực nào nữa… Mười một giờ ngọ bột với khoai chiên ngồi ăn như ngồi dưới nước, ăn mau mau vì đồ ăn đã lạnh ngắt. Một giờ tuyết ngoài đồng và mấy nẻo đường tan ra nước hết. Trên rầm nhà cũng tiêu rã, nhà nào nhà nấy cũng bị nước tuyết rịn dột ướt cả, vì bị trời nắng khô đất rầm nên nức nẻ, nay nước tuyết mới rịn dột. Tuyết trên đảnh cũng còn trắng phao, mặt trời làm tan không hết tới tối cũng còn y nguyên một màu vôi bạc. Tối tụng niệm rồi nghỉ, trời lạnh không kể mấy lớp mền, nằm tới khuya, nhờ hơi trong mình ra nhiễm ấm lớp mền, ngủ mới yên.


Ngày 20 Octobre 1936 – 6-9-â.l.

3 giờ sáng thức, nhưng hữu ngọa quán tưởng thiền định, trùm đầu trùm đuôi, không dám lo hở, mắc tiểu cũng nhịn tới sáng sẽ hay. Nằm lì tới 7 giờ mới tốc mền chỗi dậy, mọi người còn trùm. Lấy ca ra rửa mặt, hớp nước răng nhổm, lưỡi tê, nước lạnh như nước đá. Đoạn y lệ, cúng dường trà rồi điểm tâm, tụng niệm tới 8 giờ rưỡi, ra ngoài ngồi nắng. Chung quanh các đảnh núi đều còn tuyết đóng trắng bách. Mười một giờ ngọ bột và khoai, cải củ nấu canh cà-ri. Đoạn phơi đồ ngủ đặng tối nó còn hơi ấm, vì ban đêm rờ vật chi cũng lạnh đồng cả, ví như áo đang mặc, trong ấm chớ ở ngoài không khác chi lắm các vật ở ngoài cũng lạnh ngắt. Hai giờ xếp đem vào cho còn hơi ấm, tủ đó. Chiều y lệ, khí hậu lạnh tối ngày, ban đêm tăng thêm, tụng niệm rồi nghỉ.

Tiếp điển : 2 giờ khuya.

Tự đến chỉ pháp quán Vô sanh rồi dặn rằng : Ba năm sau khi về xứ, hết dư nghiệp. Ngươi sẽ lập Tây-trước-chánh-tông. Y theo bài kệ đã thấy . . .
Nếu Giáo sư quày lòng thì thôi . . . . . . . . . . . . . . . .
Giáo sư cần phải ứng mà độ người . . . . . . . . . . .


Ngày 21 Octobre 1936 – 7-9-â.l.

Nhựt y lệ. 11 giờ ngọ bột với khoai chiên. Méchen thấy ăn cũng xề gần, bần đạo mời ăn thử, khen ngon. Mười hai giờ Samdhen về vào than rằng nơi tì đau ran, thế bị beurre và thịt nhiều, vì chư huynh đệ mừng thết đãi mấy ngày, cứ cầm cộng không cho về. Cả buổi huỷnh ngủ hoài, tối than nhức đầu. Bảy giờ trùm ngủ. Một bần đạo ngồi tụng niệm y lệ rồi ngủ.

Tiếp điển :

Hỏi qua việc can qua Tàu, Ngài cho rằng : Âu nổi thì Tàu nhẹ nghiệp. Ấy là cái nghiệp bí ẩn tương giúp nhau. Chưa phải lòng tham của Nhựt : nước Tự tại bình đẳng, cốt nhục đại bại chưa đầy tháng. Nước nhà của Thầy nhờ Phật-lực, sẽ yên tĩnh. Mặt trời mọc hướng nam là điềm an ổn, không xiêu cột đèn đường. Đắc vị thất vị, lý tự nhiên.


Ngày 22 Octobre 1936 – 8-9-â.l.

Y lệ, 11 giờ ngọ bột với canh cải củ. Thấy Méchen mua đậu hủ (tôpô) nói hai trăng nga một miếng, chiếp để dạ, bữa khác sẽ mua dùng tốt lắm. Hai bữa rày cúng ngọ rồi thì đem đồ ăn ra ngoài nắng ngồi ăn, vì ăn trong nhà lạnh quá in như ngồi gần thùng nước đá, đồ ăn mau lạnh, ăn nửa bữa thì đồ ăn lạnh như ngâm nước đá. Tuyết vẫn còn đóng đầu non. Chiều y lệ tụng niệm, đoạn nghỉ sớm. Ba giờ sáng thức, hữu ngọa quán tưởng tới sáng. Khí đông thiên, một ngày một tăng sự lạnh.

Tiếp điển :

Vậy sự tạo tự sẽ không điều cản trở và ngày nào đất Xiển-đề theo cờ Phật thì ngôi tam-bửu gần hoàn toàn. Song từ đây lo gia thêm công cho mau rồi, kẻo sẽ có điều . . . . . . . . . . Phật đà Đạt mạ Tăng già phân biệt.