Ngày 17 Octobre 1936 – mùng 3-9-â.l.

Y lệ trà ngọt điểm tâm. Học chút ít, 11 giờ ngọ bột cải xào. Ba giờ coi tay giùm cho cô vợ của người quen Đầu bếp, chồng coi hôm kia, bữa nay vợ coi. Cô xin hộ 1 săng, hoan hỉ. Khuyên rước thầy tụng kinh ba ngày, rồi sau ba ngày sẽ lại thì bần đạo chỉ cách cúng dường Phật-Pháp-Tăng…… Tùng dịp khuyên người tác phước chút ít, họ lu lờ quá, ở đất Phật mà không biết Phật pháp uổng quá. Tôi cùng vợ chồng Méchen đàm đạo huỷnh khuyên mua giày da ấm, áo ấm, chớ lúc nầy đã lập đông mà thầy chỉ có một áo một quần đó hoài, tôi rất thương quá, vì đã lớn tuổi mà chịu lạnh xứ nầy sao nổi. Rất đỗi tôi đây là người xứ nầy đã quen phong thổ mà hãy chịu không nổi, huống chi thầy. – Cám ơn huynh, song tôi nhớ lúc tại Dungarseri sáu năm khổ hạnh lạnh ấm một cái y, sau qua Phật-đà-gia bồ đề thọ hạ cũng chịu ấm lạnh. Nay bần đạo như vầy là ấm áp hơn Phật xưa……. – Huỷnh lắc đầu thở ra… Chuyện tới khuya… Nghỉ.

Tiếp điển :

Việc của ngươi. Mỗi lần đem hỏa hầu xuống chút ít. Sau tựu nỗn tử thì có lợi ích về vụ xuất dương cứu khổ ứng cầu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Hai năm bốn tháng thì thấy. . .


Ngày 18 Octobre 1936 – 4-9-â.l.

Y lệ, 11 giờ ngọ cúng dường bột cải xào, khoai xào. Vợ chồng Méchen hộ một quảo khoai lang. Cám ơn hoan hỉ cúng dường bố thí. Chiều 3 giờ đang ngồi phơi nắng nhưng tháng nầy đã ít nắng, trời âm can, mây phủ đầu non từ mơi tới trưa, mây tan, tuyết đóng, bốn phía thành Lhasa núi bao ngó trắng xóa như đầu tường phết vôi. Bỗng Choundouss đi chợ về, thuật việc đã gặp cô hầu trà của Đại đức Lama cả bên thành Pato Bhutan, thuật sự Đại đức đã tịch, cô khóc lóc cùng Choundouss, ấy là người đồng hương của huỷnh. Cô đến Lhassa hầu lo cúng dường chư tự và có năm mươi Lama Bhutan đồng đi cùng cô đặng tụng kinh cầu ân Phật. Nghe qua bần đạo cũng cảm tình vì Ngài cũng đã trọng đãi bần đạo tại Pato, lại hoan hỉ đứng tên vào passeport giùm, thầm niệm Phật cầu vong linh siêu thăng tịnh độ. Đoạn 4 giờ đi nhiễu tự Chôkhăng. Chung quanh chùa thiên hạ buôn bán đông đảo, phố xá đông đặc, lúc nầy tùy theo mùa khởi Đông-chí, nên các tiệm quán bán đồ y phục kỵ hàn, nhứt là áo may da trừu dê để y lông cùng da các thú khác, mền Tây-tạng dệt bằng bông vải để xồm xàm dầy dục. Xứ còn thô tháo, nội hóa các thứ đều còn kệch hình, chưa đặng thiện mỹ, lại thêm các thứ đều mắc mỏ lắm. Da thú thuộc rồi treo lểnh nghểnh, chồng cả đống nầy qua đống kia, thiên hạ bu theo các quán ấy mua dập dìu. Bần đạo thấy da chúng thú cũng có chút thương tâm, nên chi thà chịu lạnh chớ không đành mua đó làm ấm thân. Về lo tụng niệm y lệ. Tối lại hỏi Choundouss, cô hầu Lama cả có nói vì sao bịnh chi mà Ngài tịch chăng ? – Huỷnh nói không phải bịnh, ấy là bị rủi ro bất đắc, vì Ngài đi ngựa đặng đi Calcutta, đi tới núi (chỗ chúng ta chụp hình núi tuyết) thì con ngựa của Ngài trợt tuyết té nhào, ném Ngài xuống triền, trong lưng ngài có đai súng lục liên, cấn cò nổ, đạn trúng nơi dạ dưới xoi lủng ruột nên phải bỏ mạng. Mũi thiên oai chờ người bạc mạng.
Mua một hộp quẹt.

Tiếp điển :

Việc trong ngôi tam bửu. Hai năm mới xong xuôi thì sẽ khai tự ngày Phật tổ xuất gia.
Phải tùy thời mà làm, không cần rình rang. Phải đủ y khâu theo luật đã tấu chức Đại-lặc-ma (Hòa-thượng). Cái mão tùy ý ngươi thay đổi. . . . . . . . . . . . . . .