Ba bữa rày bần-đạo mỗi bữa lên rầm nhà, một mình ngồi tiếp điển của một vị La hán, biết bao sự dạy bảo, biết bao sự Phật-đạo pháp môn giải thoát. Nhứt là Ngài bảo phải về Việt Nam Quốc độ, nơi ấy còn nhiều nhân duyên tiếp độ, nhứt là trong bọn Cao-đài, nhân duyên kiếp trước lời hứa nguyện cùng nhau. Từ ngày Cao-đài phổ hiện Nam-kỳ, nhơn dân phần nhiều biết sống bằng tinh thần, bớt sự sát sanh, biết yêu nhau, không rối loạn. Nhưng ban đầu yên ổn, tư tưởng tốt, sau bị Tha-Hóa-Tự-Tại quyến thuộc độn nhập làm loạn lòng kẻ lớn tới kẻ nhỏ, phần tiểu nhơn đem tư tưởng xấu dối cùng chánh trị. Ấy là Ma-vương muốn phá.
Nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp, nhứt thiết đạo giai thị Phật đạo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Ngày rằm tháng rồi, bần-đạo nhờ điển của Ngài, nên biết đường đi cả một buổi, tới một góc núi, Ngài ngồi chờ, Ngài nói tiếng Hindou giỏi, đảnh lễ rồi bảo ngồi, Ngài làm cho bần-đạo mê mẩn tinh thần, đoạn lấy một tấm đá khắc ít chữ rồi trao cho bần-đạo dạy . . . . . . . . . . . và một cục đá in như chiếc giày, bảo thọ đó thì nhớ pháp môn đức Đạt-Ma chính lý . . . . . . . . Đoạn đem Tâm-kinh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Ôi nhờ Ngài chuyền tư tưởng mở cả trí não của bần-đạo, làm cho bần-đạo đoạt lý tâm kinh, mới biết đó là đại-thần-chú của tam thế chư Phật. Đảnh lễ cảm ơn giáo hóa. Ngài cười rồi đứng dậy rờ đầu bần-đạo rằng : Nhân duyên trong đạo nhiều kiếp qua rồi, nay gặp nhau cũng còn dìu dẫn. Bông ưu đàm nải búp chẳng bao lâu sẽ trổ. Ngài nhắc cọng cỏ may tình tánh hỏi có nhớ hay chăng ? Ôi ! trực nhớ hết hồn ngơ ngẩn . . . Ngài có phép làm cho tâm tánh vui vẻ, bình tĩnh rồi rằng : Phật đạo cũng vậy. Ngài vẽ bông sen trên bàn tay mặt bần-đạo rồi nói Kinh tên bông nầy có tụng đọc mà không đoạt lý hay sao ? Y như trạng cỏ may. Nói rồi Ngài chuyền minh tánh làm cho bần đạo rõ lý Pháp-Hoa kinh. Đoạn Ngài chỉ nóc chùa (Tây-tạng nóc chùa nào cũng phết vàng cả) rằng : Kinh tên ấy, Bànđakitàbe nam Sona Kara . . . tụng đọc mà chẳng đoạt lý hay sao ? Nãi gianh ta ? rồi ngài móc một cục đất dưới chơn (đất mềm), bèn nắn ra hình một cái chén, đoạn Ngài thổi một hơi khô queo. Ngài hỏi cái chi ? Bần-đạo nói : Đất . . . . . . . Ngài nói : Đúng lắm . . . trước nó đất, bây giờ ra hình là cái chén . . . Kinh Kim Cang Phật dạy có khác nào . . . . . . . Đoạn Ngài ngó bần đạo làm phép chuyền trí, như mấy lần trước làm cho bần-đạo thấu đáo Kim Cang kinh nghĩa lý nhiệm màu. Ôi ! tu trong mấy kiếp, đoạt lý một giờ. Bần đạo vừa muốn hỏi thăm Đạo Minh-lý, chưa mở lời mà Ngài đã trả lời rằng : Dharam mẻ quít chờ admi ghamăndi hay – sochơna Bànda Dhrama mẻ sappê gianhta . . . . . . . . . Oh ! Giancvar man hay ! Lékina (but) quíchchờ admi piarre carơ, ap carơ piarre hay . . . . . . Dứt lời Ngài nói qua việc khác rằng : Nhiều bạn Lama trí thức muốn cho ngươi ở lại Lhassa, nhưng ngày giờ hoằng hóa đã hầu đến, ở sao đặng. Còn sẽ gặp nhau. Lhassa có nạn. Dứt lời Ngài xây lưng bước lên núi, mịt mờ bần đạo không thấy chi cả, hình dạng Ngài đâu mất.
(Hai phen đảnh lễ Tổ sư. Rằm tháng 5, 12 tháng 6, còn tiếp điển, nhiều phen nhờ chuyền trí thông đạt.)
Bần đạo bươn bả về nhà ngụ, Samdhen hỏi thầy đi đâu về đó ? – Đi dạo dưới mé sông… Huỷnh nói : Đi một mình không tốt, e gặp kẻ hung hoang… Bốn chữ Lhassa có nạn, nay mới rõ, vị Đại-đức Taxi Lama bị hại… ấy cũng qua rồi nghiệp kiếp…
Tiếp điển : Lời căn dặn :
Về vụ đạo tràng biến đổi. Ấy nghiệp kiếp tội tiêu . . . .

Trả lời với trích dẫn