Ngày 19 Juillet 1936 – mùng 2-6-â.l.
Điểm tâm, phơi đồ, lên rầm nhổ cỏ, sửa soạn mướn gánh đất bồi bổ. Lúc bần đạo xơi ngọ rồi, nằm nghỉ, thì nghe la chở đất tới, Issê và Sonnam đem lên bồi bổ, Samdhen cũng nghỉ trưa, khi thức dậy lên xem đoạn xuống kêu bần đạo thức dậy, bảo lên rầm xem, bảo đôi ba lần, bần đạo cũng thuận tình lên xem, trở xuống vào liêu nói : Tốt quá. Huỷnh nói đất đó mua hết 24 trăng nga, nói hai lần, bần đạo hiểu ý, bèn nói : Tiền đất ấy để tôi trả cho, coi bộ huỷnh hơi thẹn, nói không, không, để tôi trả. Bần đạo vui cười rằng : Vậy thôi phần huynh nửa tôi phân nửa và nói và móc túi lấy ra một tấm giấy bạc 2 rupee để trên tợ của huỷnh, rồi lên đơn ngồi. Huỷnh dường thẹn mặt vì biết Bần đạo đoạt ý của huỷnh, huỷnh nói trưa sao buồn ngủ quá, rồi nhắm mắt. Bần đạo thấy vậy, thấy tấm giấy còn trên tợ, bước lại lấy giấy bạc đem qua cô đầu bếp mượn đổi giùm tiền lẻ. Huỷnh hay, hỏi Isess, Isess nói bần đạo mượn đổi tiền. Huỷnh làm thinh, bần đạo vào đơn ngồi viết nhựt ký…
Tình đời theo lối thế kỷ mạt pháp nầy, tăng tục đều sống bằng tiền, bạn bằng tiền, thương ghét tùy tiền. Ôi ! Ôi ! đời kim tiền, có chi lạ cho cái máu tham lam, nghe hơi đồng thì vui thì cung phụng, vắng hơi đồng thì mặt mày đổi sắc, bạc đãi, thô lời… Chán biết cái tâm đời…
Đoạn 4 giờ có một Lama tới viếng huỷnh, rốt chuyện rồi huỷnh nói với bần đạo : Vị Lama đây là tăng-sư tại nhà thiền Thừa tướng Trzăng-pá Khâm-trzanh, hỏi thầy đến cúng dường tại đó ra thế nào ? Đạo chúng cúng dường thế nào, nhà thiền ra sao ? Bần đạo rằng : Sự cúng dường tốt lắm. Cả thảy đều tốt, không chi lạ. Huỷnh thông ngôn lại, đoạn Lama khách kiếu về. Mấy huỷnh rủ đi chợ, bần đạo chối từ, ở nhà nấu trà sữa uống chơi. Chợ búa đường xá ướt át, bữa trước đi rồi, sình nẩy ngập dày, nay còn đi chi, để cho họ đi cho biết…
Luận : nghĩ mình Thích-tử, chữ nhẫn làm đầu, nên chi muôn điều ngàn việc đều phải nhẫn nhục. Đất khách, người lạ, ta là kẻ tha phương, mọi lời xuất khẩu phải dè dặt, nhu hòa, nhỏ nhẹ, cho ngoan lời nói, nơi xứ người như nước chìu lòng sông rạch, thì muôn việc dễ dàng, xuôi xếp. Vì xét vậy, mà từ ngày cùng bọn Samdhen theo chưn đi Tây-tạng, bốn nguyệt dư không một mảy mích lòng. Ở ăn đều dè dặt, đến sự họ cợt diễu lời nói, bần tăng cũng phuôi pha hoan hỉ nhẫn nhục cho qua ngày. Cho đến đồng tiền, bần đạo cũng chịu thua sút, chìu ý mà xuất phát ít nhiều. Đời mạt pháp, người Tăng kẻ tục đồng tánh, máu tham tài nung nẩy, nghe hơi đồng tâm ý khoái nhiên, đã đạt được đặng tâm người mà còn để cho mích dạ, phiền lòng, nghịch ý, thì không đáng mặt Phật đệ tử. Khắp hoàn vũ, có nơi nào mà chẳng sống vì tiền tài, tranh, đấu, cấu xé, chẳng thương nhau, giết lẫn nhau, binh đao dấy động, đống chiến-thi chất-ngất thành non, máu tử-trận tràn-lan như biển cả, cũng vì cái huyết tham tài. Gặp đời mạt-pháp, bần-đạo hổ vì đức bạc phước mỏng, không dùng đặng cái đức hạnh của nòi Thích-tử mà phục lòng người, lại buộc phải dụng tiền tài mà thắng thói đời, thật cho là thậm-sỉ cho con nhà Phật đạo. Song nhớ câu Phật dạy chư Bồ-tát, Thinh-văn đệ tử rằng : “Hành Bồ-tát đạo, đạt pháp-giới tánh thiên nhiên, tùy thuận chúng sanh : thân, ngữ, ý, bất trụ tâm, bất trước pháp, vô phước đức tánh, như như bất động, thị danh Phật đệ tử.” – Vì vậy mà Bần đạo vui lòng tùy thuận, cùng bọn Samdhen không ai cấm trách đặng, mấy tháng trời nương gót tới Lhassa. Tới đây cùng Quan trong xứ cũng chìu ý thuận lòng, làm cho người người vui thấy, đường đường vô chướng ngại. Mấy cảnh chùa đại chúng hoan nghinh, tiếng đồn khắp vui nghe tên Bần đạo là thầy tu Nam-việt tới Lhassa. Vua quan dân cùng cả tăng sư mới lần nhứt biết người cõi Việt Annam…

Trả lời với trích dẫn