Ngày 7 Avril 1936 – 16-3-â.l.

Đi Darjeeling và gởi ba cartes postales cho anh mười. Lại quận Laden La, ngài mắc đi làm việc tới 3 giờ mới về nhà. Ba huynh đệ : Samdhen, Choundouss và bần-đạo chờ từ 9 giờ mơi cho tới 6 giờ chiều mới ra mắt ngài đặng. Thầy ký vào nhắc ngài thì ngài cho mời bần-đạo vào, ngài hỏi chừng nào đi Tibet ? ¬– Tôi không hiểu, chừng nào Samdhen lama đi thì tôi đi với huỷnh. Ngài hỏi có Samdhen đi đây không ? – Có. – Kêu người vô. – Samdhen vô bureau(2) thì ngài ký gởi tôi.
Mua carte postale 1R.
- một hộp fromage 1R.
- cò, bao thơ, giấy 1R.
Xe hơi 1R.
Sở phí và đóng giày 1R.

Ngày 8 Avril 1936 – 17-3-â.l. Mercredi.

Sớm mơi mua hai ổ bánh mì 2 anna. Huynh Sam-dhen một ổ, bần-đạo một ổ, ăn lót lòng với nước xì yểu. Trưa mua một bắp cải 6 xu, 1 xu cà tomate. Nấu chay ăn ngọ.

Ngày 9 Avril 1936 – 18-3-â.l. Jeudi – Thursday.

Mua hai boysa sữa, nấu cơm nguội với sữa ăn lót lòng, hai pacs cà tomate và me, một pic dầu. Nấu canh chua với cải bắp. Ăn ngọ.
Chiều 7 giờ có hội Nam-nữ tựu lại phố cúng dường tùy hỉ cho huynh Samdhen vì gần tạm biệt về Tây-tạng. Họ cũng uống nước cơm rượu như mọi lần. Ca hát cùng nhau.

Ngày 10 Avril 1936 – 19-3-â.l. Vendredi – Friday.

Bữa nay thức dậy cũng lo điểm tâm cơm chiên. Rồi 8 giờ rưỡi nấu cải xập xại với với bắp cải để ăn ngọ.
Đoạn thấy huynh Samdhen đem vô một đôi hia Tây-tạng bảo tôi mang thử và nói hia nầy (clâm) tốt song phải sửa lại tấm da bàn. Chừng qua Kalimpur sẽ may lại. Kế một lát 9 giờ huỷnh bảo lo ăn cơm rồi xe hơi lại đi, bữa nay tốt ngày. Tôi không hiểu đi đâu, song cũng cứ việc nghe lời. Huynh Choundouss một chập cũng bảo vậy và nói đi xa hai cây số, đem chén theo uống trà. Ngỡ đi rước ai.

Ngày 11 Avril 1936 – 20-3-â.l. Samedi – Saturday.
Sớm mơi dùng cơm nguội với nước trà điểm tâm. 8 giờ rưỡi lo đi lên chùa đảnh lễ tạm biệt đức Baha Lama và chư đại chúng. Ngài có hộ bần đạo 4 rupee và một gói thuốc với một vị Guru bằng mộc hương. Sự đối đãi rất mật thiết, nghĩ càng kính cảm đức của ngài.
Lấy năm cái y bao cốt Phật vào thùng cho êm, vì đệ(1) về tới Tây-tạng.

Ngày 12 Avril 1936 – 21-3-â.l. Dimanche – Sunday.

Bữa nay vô sự. Huynh Isess cho một cái mão lama cũ, bần đạo tháo chỉ và xin vải may lại, trở trái làm mặt. Từ sớm mơi tới chiều đã rồi. Tối tụng kinh cầu chúc, nguyện cho chư thần và âm linh nơi thành Ghoom vì trên một tháng ngụ tại đây, nhờ chư thần ủng hộ Phật pháp và thính kinh, bần-đạo đặng an ổn thân tâm.

Ngày 13 Avril 1936 – 22-3-â.l. Lundi – Monday.

10 giờ mơi đi Kalimpong, có chư Tibetain cư-sĩ đến dưng anh lạc, chúc bình an tất đường. Đi tới 6 miles (dặm) có quán xuống xe hơi, vì xe hơi hết đường. Đem hành lý xuống, trả tiền xe hơi, vào quán 12 giờ, đồng dùng trà sữa, rồi mướn coolie vác đồ hành lý đi bộ, lên đèo xuống ải, trải qua mấy gộp,(1) phần xuống ải thì nhiều, đi 30 cây số ngàn tới 4 giờ tới Traisitra mới có đường xe hơi, vào tiệm dùng trà rồi mướn xe hơi đi, 7 giờ tới Kalimpong. Vào nhà người Tây-tạng sửa đồng hồ, để đồ hành lý, và dùng trà với bánh bao ngọt. Đoạn 8 giờ rưỡi lại phố quen nghỉ, ba huynh đệ : Samdhen, Isess và tôi.