DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 6/9 ĐầuĐầu ... 45678 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 51 tới 60 của 191
  1. #1
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 10 Mai 1936 – 20-3nh-â.l.

    Nhựt thường. Điểm tâm hột nổ với trà. Vào ra quan sát cử chỉ người Bhutan, không chi lạ, bèn vào liêu ngồi vá quần, ngày giờ như thoi đưa, phút huynh Isess bưng cơm, mời ăn ngọ. Đang khi ngọ thời, bần đạo dâng chén lên trán cúng dường, ngó qua Isess thấy huỷnh cũng bưng chén cơm của huỷnh ngang trán nhái bần đạo. Đoạn bần đạo cúng rồi, để cơm xuống nói với huỷnh rằng : Sự cúng dường đừng nhái không nên, huynh không phải người tu hành, huynh không biết sự cúng, thì cứ việc ăn, còn bần đạo cúng thì là lẽ thường, huỷnh đã ngó thấy thường ngày, từ ở Ghoom tới đây là hai tháng ngoài, biết rồi còn nhái chi. Đoạn huynh Samdhen nói : Y thường kiêu ngạo tới tôi nữa, y có tật đó xấu lắm. Bần đạo bèn dã-lã nói rằng : Không sao, hậu kiếp sẽ cúng dường lung lắm, trong kinh Phật có nói : Lúc Phật đi khất thực, đi ngang qua đám trẻ chơi, thì trong đám trẻ nhỏ ấy có một đứa hốt một nắm cát cúng dường bỏ vào bát của Phật. Phật vui thọ, đoạn nói với Xá Lợi Phất rằng : Kiếp sau sẽ có một vị vua tên Asoka cất 80.000 tháp Phật, ấy là đứa nhỏ ấy. Đoạn huynh-đệ cười nói, Isess hậu kiếp sẽ cúng dường lung lắm y như thầy nói, huynh-đệ đồng ăn ngọ. Ăn rồi, nghỉ ngơi, bần đạo đi chùi cái nồi nhôm để dùng cơm, đoạn cũng nghỉ như họ.


    Ngày 11 Mai 1936 – 21-3nh-â.l.

    Nhựt thường không chi lạ, vào ra Quốc tự, thấy chính giữa là chùa cất riêng cao lớn, xây tường đá núi, trên nóc lợp tôle, đảnh tự bằng đồng. Chung quanh cất phòng liêu khám thất, có chỗ công-thính, khám tù. Có hai người tội nhơn xiềng cẳng. Đêm có vọng canh, khắc sanh hai. Ngày thiên hạ vào ra như đi chợ, lớp thầy tu (100 vị) lớp thầy thợ làm công, thợ mộc, thợ hồ, coolie. Thợ hồ không thiện nghệ như xứ ta, chỉ biết xây tường xây cột, vậy nên không thước tấc chi (không biết làm tráng đắp bông, họa hoa tế kiển, những fronton), trần lộ thì dùng cây. Thợ mộc, thợ chạm còn thô dụng chỉ niển, không biết bắt cho rành, chạm sơ sài như trẻ mới học xứ ta. Lấy màu son vẽ làm lịch. Chùa miễu lầu đài nhà cửa đều làm trang cửa lộ rồi sơn vẽ làm như lồng bồ câu xứ ta. Hồ thì chỉ lấy đất sét có cát pha, đập rồi đãi nhuyễn mà làm hồ có trộn vôi tro chút ít. Nói tắt là họ mới tấn hóa công nghệ còn vụng-về. Nhưng cả nước đều là đạo Phật, lòng dạ phần đông tốt, hảo tâm. Theo sự tham lam vật chi ai bỏ quên hay đổ ngoài sân trước ngõ thì đâu cứ y nguyên đó, đến trẻ nhỏ cũng vậy, không bò què bò quẹt ăn cắp ăn kiêu. Tuy họ mới tấn hóa vật chất, chớ trí não của họ thật sống bằng tinh thần. Thân thể không cần, có tiền thì nửa phần ăn, nửa phần cúng dường, ngộ thiệt. Ăn lấy no chứ không lấy ngon. Mặc cho ấm chứ không cần tốt, mình mẩy không lo cho sạch, chỉ lo sạch cái tâm. Ăn uống sạch hơn Miên, Mọi xứ ta mà cách ở y Cao-miên, tấn hóa hơn Mọi, ăn trầu cũng với cao tầm dung, hút thuốc cũng còn y lá chớ không xắt. Cả thảy nhơn-dân đều mặc đồ vải bô, thao đuổi nội hóa có mỗi nhà quan nhà giàu thì sắm đồ hàng toàn để dùng trong đám tiệc. Cách họ ở cũng như Cao-miên, không ngồi ghế ván, chỉ ngồi dưới đất hay trên rầm. Sự cung kỉnh thầy thì thua xứ Cao-miên. Đờn bà còn xen lộn vào đám thầy tu hoặc thấy thầy tu như người thường, không mọp, không tránh đường như Cao-miên.

    Om Mani Padme Hum !

  2. #2
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 12 Mai 1936 – 22-3nh-â.l.

    Nhựt thường. Ngọ thực rồi, huynh đệ rủ nhau đi xuống suối giặt y phục. Bần đạo giặt diệm rồi, bèn tuốt hết quần áo, vận chăn nhỏ, xuống suối tắm. Từ ngày xa Phật-đà-gia tới nay không có tắm, chỉ lau mình mà chịu. Nay tắm phỉ xác phàm lắm, khỏe khoắn, tuy là nước suối lạnh không thua nước đá, nhưng giờ trưa nầy, mặt trời cũng thạnh. Tắm rồi nhờ có nắng cũng đỡ, tắm gội rồi lên phơi nắng một giờ nghe trong xác tục nhẹ nhàng hết sức. Mấy huynh kia không ai dám tắm, chỉ gội đầu rửa mặt là cùng sự, họ sợ lạnh lắm. Tắm rồi, còn đợi đồ phơi cho khô, trong khoảng ấy hỏi thăm Issê mới biết nước Bhutan có ba thành mà thôi. 1 Kinh đô là Damtang cách cả thành Patrô nầy mười cây số ngàn và một Quan-ải nữa, kế ranh Kalimpong, tên là Hắc cũng có một trấn quan như đây mà nhỏ hơn. Đoạn đồ khô, thâu y phục. Về.


    Ngày 13 Mai 1936 – 23-3nh-â.l.

    Nhựt thường, lúc ăn ngọ rồi, cũng rủ nhau đi xuống suối tắm rửa tùy ý. Bữa nay có Samdhen rủ đi lên khúc suối trên xa, không có ai, nhiều kẻ lộn xộn. Đoạn tới một khúc suối vắng vẻ, trên bờ có đồng cỏ và một cội cây. Huynh đệ đồng ngồi trên cỏ chơi một chập rồi mới tùy ý tắm giặt. Bần đạo đi dọc theo mé suối lượm vài cục đá bạc làm kỷ niệm. Đoạn Samdhen ra tắm, bần đạo bèn tắm với huỷnh còn Choundouss, Issê và Isess sợ nước. Samdhen lạnh run, tắm sơ lên trùm áo phơi nắng. Ấy họ đã quen phong thổ mà còn lạnh hà huống bần đạo, nhưng phải tắm cho khỏe xác phàm. Tắm rồi, phơi khô y phục, huynh đệ họ chơi carte cho qua buổi. Samdhen trải vải dưới cội cây ngủ. Bần đạo rảo bước ra suối lượm đá. Khi đồ khô rồi, huynh đệ thu xếp đi về. Lúc về đến phòng liêu thì cùng nhau nghỉ ngơi rồi uống trà. Đoạn một huynh Bhutan Lama say xăng vào liêu đi xiên tó, nói nhầy nhựa cằn rằng chi đó. Mấy huynh kia trả lời lại. Lúc họ vào mở tủ của họ, lộn xộn bần đạo mất cái hộp đựng xà bông. Thôi họ cứ việc dùng, ta cũng vui lòng hết cực cùng vật chất một món.
    Ngày nay thấy dân nam-nữ nạp thuế gạo như mấy bữa trước. Tối xem kinh rồi ngủ.


    Ngày 14 Mai 1936 – 24-3nh-â.l.

    Nhựt thường lệ. Bữa nay cũng đi tắm. Đây thuật về cách cư xử của chư tu hành Bhutan : mỗi ngày có một Lama trị nhựt, quản xuất chúng tăng vào ra phải trình, người thế có việc chi can thiệp với đại chúng, hoặc thăm viếng, hoặc đem dưng lễ vật ẩm thực, cũng phải trình cho Trị-nhựt. Người có phép cầm roi da phạt đòn đại chúng, nếu có ai sái phép. Mỗi ngày, phần chánh phủ, thì chiều 6 giờ có cắt vọng canh, hễ tới giờ thu không thì người cai quản vọng canh lấy roi da nẹt trên thạch bàn ba tiếng, thì dân canh biết, liền khắc một chập sanh lại hai tiếng. Cả đêm phân nhau canh gác, khắc sanh hai.
    Thấy họ đắp cốt Phật đất giã nhuyễn. Xứ núi đá, nhưng họ còn chưa thạo nghề trổ đá, cách đắp cốt cũng khéo coi cũng đặng.

    Om Mani Padme Hum !

  3. #3
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 15 Mai 1936 – 25-3nh-â.l.

    Nhựt thường, bữa nay ăn ngọ rồi đi dạo đồng ruộng. Xứ nầy có cấy thứ lúa bông như bông cỏ. Có hai thứ : một thứ lông đuôi cụt gọi là Nễ, thường nhơn-dân dùng làm hèm rượu xăng ; một thứ lông đuôi dài gọi là Trô, thường nhơn-dân dùng làm bột sadou, rang rồi xay, đi xa đường đem theo khỏi nấu, phương tiện lúc hết gạo dùng cũng đỡ lắm. Cũng có cấy lúa, gạo đỏ là phần nhiều. Nấu cơm cứng ít nở. Đoạn huynh đệ trải vải ngồi chơi một chập. Kế có huynh đồng xứ (Lađặc) cùng Samdhen (huynh Isess đi lại nhà kêu) đến ngồi chuyện vãn một chập, bèn lấy túi trà (Issê về liêu lấy trà, beurre và chén) đi về nhà gần đó nấu trà thục. Huynh đệ một giây lát đồng đi đến nhà của huỷnh. Chỗ ở trên lầu thứ ba của cái nhà lầu ngoài hàng ba phía tả, chật hẹp, bề dài lối ba thước, bề ngang lối một thước, chỗ nấu ăn lại ở nơi lầu thứ nhì. Đến đó thì hai huynh đệ tôi và Samdhen vào ngồi nơi chỗ phòng chái, còn các huynh đệ ở dưới nhà bếp. Chập lâu con gái của huỷnh đem trà lên rót mời dùng. Còn chư huynh đệ ở nhà bếp uống xăng. Bữa nay bần đạo nghe êm bụng, bần thần mỏi mê cả châu thân, nhứt là cái cẳng đau nhức mỏi lắm. Chiều 4 giờ về, bần-đạo mê mết nhưng cũng gắng gượng. Tối ngủ nghe trong mình nóng nảy lắm, nhức mỏi cả đêm, song sáng cũng bớt. Huynh Samdhen nghe rên, huỷnh hỏi hoài : nhứt đầu bớt chăng ? Bần đạo nhức đầu vì nhiều điển âm nhập thấp (cẳng đau). Vuốt đều, đem âm thấp ra thì tự nhiên hết các chứng bịnh.


    Ngày 16 Mai 1936 – 26-3nh-â.l.

    Nhựt thường lệ, trong mình còn nóng lạnh, mỏi nhức bớt chút ít. Ngày nay phải nằm hoài. Đưa cho Samdhen 10 rupee đặng chi phí. Huỷnh bảo Choun-douss đổi tiền Tây-tạng, đoạn huỷnh bảo bần đạo bỏ túi chút ít, phòng có lúc dùng hữu dụng, tôi lấy phân nửa số huỷnh trao là 29 đồng 2 sous. Chiều Choundouss đi độ lương phạn nơi dinh Trấn quan. Khuya thức giấc nghe bớt mỏi mê.


    Ngày 17 Mai 1936 – 27-3nh-â.l.

    Thường lệ, song bữa nay Samdhen sớm mơi chưa điểm tâm, lo sắm sửa lại viếng Trấn quan, cám ơn vật thực ngài hộ và nói ở lâu cảm khí hậu nhức mỏi. Trấn quan bảo đi dầm nước nóng. Ngài cho người lo vụ đó và cho mượn chòi bố (tente). Đoạn 8 giờ, huỷnh về, thì ở nhà đã dùng điểm tâm rồi, huỷnh bảo lo khuân đồ ngủ đồ nấu ăn đi ra mé suối. Đoạn huynh-đệ lo mang đi, đến mé suối dựng chòi, có người của Trấn quan phụ giúp. Đoạn Isess lo nấu ăn, còn hai người của quan lo ôm rơm rải trong chòi rồi đem đồ vào, rồi lo đi hầm đá hòn, đổ nước vào máng. Đến khi đá đã đỏ, thì gắp đá (bằng kềm sắt spécial pour…) bỏ vào máng, sôi ục-ục, nước nóng lối 36, huynh Samdhen dầm trước nửa giờ, vào trùm (uống một chén nước cơm rượu) trùm một hơi mồ hôi ra lai láng như xông. Kế bần-đạo cũng đi dầm, khi vô chòi huỷnh cũng bắt uống một chén xăng rồi trùm. Huỷnh nói : như vậy khí độc, nước độc sẽ xuất ra hết, hết đau, mời bần đạo trùm một chập, mồ hôi ra, lau mình, nghe nhẹ nhàng xác tục. Bần đạo nghĩ cho, nhờ đá đốt đỏ, bỏ vào nước, ra khí đá, nên gân cốt đặng mạnh. Cách họ bày theo tục lệ của họ ở nơi núi non, nhưng thiệt tốt lắm, song tốn củi lắm. Đoạn chiều 6 giờ dầm một lần nữa. Trọn ngày chư huynh đệ và mấy người quân sai đều dùng xăng, vui cười, hò hát chơi tới khuya. Tội nghiệp Issê say xăng bị đòn. Đêm nay ngủ khỏe không nhức mỏi. Khuya thức giấc, nghe trong mình như cựu lệ không còn mê mệt.

    Om Mani Padme Hum !

  4. #4
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 6 Mars 1936 – 13-2 âm-lịch.

    Sáng bữa nay 6 giờ, đại-tốc-hỏa-xa đến gare Sili-guri, sang xe lửa nhỏ mua giấy đi đến thành Ghum (Ghoom) 1R.6A. Có một thầy xét hành lý. Thấy trong đồ ngủ có một cái thùng xăng không, tưởng có đồ lung đòi cân, tôi mở ra xem thiệt thùng không mới chịu thôi. Huynh Chamba Choundouss lama có cái rương phải đóng 1R.4A.

    Xe lửa nhỏ 7 giờ rưỡi chạy. Cách ba gare thì xe khởi sự bò lên núi Hymalaya. Tới gare Chunbhanti (élévation 2.208m). Tới gare Tindharia (2.822m). Tới gare Mahanadi (4.101m). Tới gare Kursiong (4.864m) là 11 giờ trưa.

    [Hình dán tại đây đã hư.]

    Gare nầy lớn, có phố xá, có công sở chánh phủ, đủ cuộc, có nhà Tham-biện ở trên đảnh núi. Từ đây dọc đường nhà cửa lầu đài đông đảo. Cuộc vĩ đại của Chánh phủ Anglais thấy càng thêm kính phục. Tới gare Tung (5.656 hắc), phố xá đẹp đẽ, có nhà giây thép. Tới gare Sonada (6.552 hắc), phố xá chút ít. Một giờ chiều tới gare Ghum (7.407 hắc). Hắc là thứ thước họa đồ, Anglais dùng thước 1 hắc nầy mà đo núi, kể ra 2 hắc là 1 thước Ăng-lê. Từ thành Siliguri tới chưn núi lên tới thành Ghoom trải qua 15 ga, mỗi gare đều có dựng bản ghi bề cao mỗi gare nơi thành lớn. Tuy trên núi mà thành thị không kém sút đất bằng, thiệt Chánh phủ Ăng-lê khéo tạo thành non thị cho khách ăn chơi đục nực lúc mùa hạ nơi Ấn-độ. Mỗi thành có đủ thức dụng cho khách du.
    Tới Ghoom, xuống xe vào phố ngụ của chư huynh lama, ăn cơm và nghỉ.

    [Hình dán tại đây đã hư.]

    Ngày 7 Mars 1936 – mùng 14-2 âm-lịch.

    Sáng, dạo phố xem thì phần đông dân Tây-tạng xuống ở, buôn bán lập sự nghiệp ở Ghum nầy. Thành phố cũng đẹp đẽ, có chùa Lama lớn đẹp, đang sửa soạn cúng rằm, hát chập, lễ Phật, xem chùa.

    Từ thành Ghoom nầy thì đã thấy lạnh rồi, mùa tuyết hằng ngày giá trong trắng núi. Lối tháng nầy ở Calcutta đã khởi nực mà tại đây còn giá tuyết lấp non, thiệt cái lạnh không thể nói. Huynh Lama nói : Lúc nầy tuyết đóng còn cao quá, thế đi bất tiện nên tạm nghỉ tại Ghoom và thành Darjeeling một tháng.

    Ngày 8 Mars 1936 – 15-2 âm-lịch.

    Tại Ghoom lúc 7 giờ sáng trời mưa. 8 giờ rưỡi hết mưa. 11 giờ các quan Ăng-lê tề tựu tại chùa Ghum-pa có Laden-La chủ sự tiếp rước, dự cuộïc cúng rằm và hát rằm. Bần-đạo chụp ảnh nội cuôäc. 12 giờ khởi hát rằm, mang mặt nạ múa. 1 giờ rưỡi rồi cuộc. Bần-đạo trao thơ của Chánh-từ-hàng cho Laden-La. Xem thơ rồi, bảo chừng Samdhen về Ghoom thì bảo đi cùng bần đạo qua Darjeeling. Cúng hội 5 rupee.

    Om Mani Padme Hum !

  5. #5
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 30 Avril 1936 – mùng 10-3-â.l.

    Như thường lệ, viết thơ sơ thuật gởi cho anh mười. Samdhen có bảo viết thơ cho Mr. Liu Ming ở Calcutta cho hay chúng ta đã đến ải đồng Phariyong-Tibet, qua ngày sau nếu có ngựa thì đi Bhutan và dặn có gởi thơ thì gởi cho quan trấn ải ngài sẽ trao lại cho huynh. Đề như vầy :

    Guru Grawa Samdhen Lama
    Karap Dartrung Kushark
    Phariyong Tibet.

    Viết rồi giao cho Choundouss đem lại nhà Babon (quan) nhưng nhà quan chưa mở cửa, đem về chiều sẽ đem gởi.

    Đoạn ăn ngọ với bột nhồi với canh cải xập xại phơi khô. Ăn rồi một chập, bần đạo lên rầm nhà đi tiểu, vì cầu tiêu ở trên rầm, cách họ làm bắt tức cười, lên rầm rồi xuống thang có xây vách đất một chỗ để tiêu và đổ rác, sau bán làm phân. Tiểu rồi, đứng trên rầm xem qua nhà quan Karap, phải cách chụp hình làm kỷ niệm, nghĩ vậy bèn xuống lầu nói với Samdhen, huỷnh cùng hai huynh Issê và Thinhless đồng chụp ảnh, rồi kế bần-đạo cũng y hướng cho huynh Samdhen chụp giùm.

    [Hình dán tại đây đã hư.]

    Lên rầm đứng một lát vậy mà lạnh run, thiệt xứ ở non Hi-mã, từ Ri-canh-căng đi lần lên cao hoài nên tuyết đóng trắng đảnh, hơi khí thở lần lần nghe mệt quá. Tại Phariyong nầy, xem mấy đảnh núi thấp và bình địa lung, thì như trên núi Điện, leo lần lên tới bình địa xem hữu đảnh thấy đảnh thấp. Vì vậy nên nhà họ cất lúm túm ít cửa. Xứ lạnh, vật chết tuy quăng ném cùng đường, xương, cốt, da, phẩn đầy nẻo, song sự thúi nghe cũng ít hơi như thây vật chết xứ ta.

    Đây, bần-đạo tự do đi xem các nơi, chư huynh đi dạo cùng bần đạo lại ưa nói tiếng Hindi và Englis cùng bần-đạo, nhứt là trải qua mấy chỗ đông người như tại chợ vào tiệm, thì huynh Choundouss ưa nói Ăng-lê, vì bần-đạo có dạy huỷnh chút ít tiếng thường dùng. Ấy là ý như khoe người đồng ban, mình đi xứ thuộc địa Ăng-lê biết nói Hindi và Ăng-lê, nói cho họ biết mình nhiều chỗ du lịch. Nghĩ nhớ anh phán có nói : có đọc nhựt trình, trên khoản du lịch Tây-tạng, có một bọn đi lên núi ấy, có nhà nước giúp sức cho tiện sự đi, nhưng đi mà chẳng thấy về… Nay bần-đạo đi đây, găïp khí tuyết lạnh-lùng, hơi thở mệt nhọc thì mới rõ chút ít, định cho bọn ấy, một là bị bịnh ngộp thở và bịnh trẩn máu (gangrène) hoặc bị trợt tuyết sa hào, hoặc bị tuyết rã té xuống triền sâu, lạc đường chết đói, nghĩ vậy bắt thương tâm cho kẻ mạo-hiểm. Nghĩ cho bần-đạo, quả cả năm tại Trung thiên Ấn-độ, ấm lạnh hai mùa đã chịu quen, như tại Sarnath và Bodh-gaya, trọn mùa lạnh ở đó, sự lạnh xấp chín, mười lần trổi hơn xứ mình, lạnh đến đỗi tối ngủ, mền đắp mấy cái cũng không phỉ. Mắc tiểu, thì mình đợi sáng chớ không muốn tốc mền và ra ngoài tiểu, nói vậy thì biết sự lạnh dường bao. Hết mùa lạnh thì đã khởi đi Tây-tạng. Một tuần lễ tại Calcutta, mỗi ngày hai bữa tắm, không giờ nào hở quạt. Nhưng lúc lên tại non Hi-mã thành Ghoom, Darjeeling, chịu sự lạnh còn trối ngất. Đó là Ghoom còn ở dưới thấp, hà huống trải qua các trạm cho tới ải đồng Pharijong nầy, một ngày tấc đường một lên cao, tháng nực ở các xứ mà đây lạnh thấu xương, tuyết còn trắng núi lấp đường, hà huống là tới lập đông. Theo ý bần đạo, bọn mạo hiểm ấy không biết thì giờ, đi nhầm lối tuyết còn cao, gió còn lung. Họ lấy theo ngày giờ nóng nực xứ mình, họ cho là hết lạnh, họ đi lối tuần tháng giêng Annam thì họ lầm lắm. Tháng nầy là Avril mà đường núi bần-đạo đã trải qua nhiều nơi tuyết còn cao trên thước, lại đi cùng chư huynh đệ Tây-tạng, như huynh lama Samdhen nầy, khắp các nơi đều có người quen lớn, hoặc bổn-đạo của huỷnh. Đến đâu cũng có nhà ấm kính mà đụt lạnh, có củi lửa nước nôi ấm áp mà tay chưn bần-đạo còn lạnh như đồng thay, hà huống mạo hiểm như bọn nói trên, không thuộc đường cao nẻo thấp, lánh tuyết ẩn sương, không biết nơi đỗ đụt đợi thời giờ nên đi. Đừng tưởng có mặt trời mà tuyết phải tan, bần đạo vẫn thấy mặt trời chan chan nắng giọi mà tuyết vẫn trơ trơ, chỉ lần hồi bắt ở dưới đất tiêu lần ra nước rỉ rả chút đỉnh vậy thôi, chừng đủ thì giờ trời tối cũng rã tan, chẳng lựa có mặt trời. Như tại Pharijong nầy, cách núi tuyết chừng ngàn thước, thì ngày đêm bần đạo vẫn thấy trắng như vôi, có bữa sớm mơi ra thấy núi xanh um, chừng 10 giờ, 11 giờ thì tuyết xuống đã trắng đảnh, vậy thì biết chưa phải mặt trời làm rã nó. Nước đá đông đặc xem khác hơn tuyết đặc. Sự nầy bần-đạo nghĩ chưa ra, như gần suối nơi triền núi, sao nước suối không đông, mà trên mé suối tuyết đóng trắng bờ. Nước suối lạnh thì có mà không đặc. Lạnh đến đỗi hốp vào thì phun ra liền mà răng ê lưỡi quánh lận, thiệt quá đỗi lạnh. Nghĩ vậy bần đạo cho rằng : nếu bần đạo đi một mình, không có bọn Lama nầy, thì bần-đạo cũng phải chết lạnh hay chết vì tuyết chôn thân.

    Om Mani Padme Hum !

  6. #6
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 2 Mai 1936 – 12-3-â.l.

    Ở chỗ nầy cũng lạnh, nhưng lạnh ít hơn ở Phari-jong, nên huynh Samdhen 5 giờ rưỡi còn trùm. Sáu giờ thu xếp hành lý, trà đã chín, nhồi bột ăn rồi 8 giờ rưỡi lên đường. Tạm biệt ông chủ và mấy cô em, đường xấu quá, hào hố, đá cục chinh-chồng, mang giày mà đi cấn một hai cục đá thốn thấu trong bàn chưn. Và đi và niệm Phật và niệm thần chú nguyện cho loài vi tế côn trùng tại túc hạ tán kỳ hình. Nhờ niệm vậy có lúc quên mệt, phút đã tới trạm Sinhgara, chỉ có một cái nhà trạm mà thôi. Huynh đệ đồng vào uống trà, mở hành lý cho ngựa nghỉ, trà còn trong chai thermo, uống mỗi người vài chén. Đợi huynh Isess nấu trà rồi sẽ uống tiếp. Trong khoảng đợi ấy, huynh đệ họ cùng một người hành khách cùng nhau đánh bài cào. Đoạn huynh Isess kêu vào uống trà và ăn sadou. Bần đạo xin kiếu vì sớm mơi ăn còn no, khi các huỷnh no nê rồi thì 12 giờ rưỡi lên đường. Bần đạo đi dở nên thường hay đi trước, đã cởi giày lột vớ bỏ vào túi dết đặng đi cẳng không, bớt đau và thong thả cẳng, đi chừng ngàn thước thì huynh Choundouss và Issê theo đã kịp và nói : thầy thủng thẳng đi, hai anh em tôi đi trước đặng trình thông hành (xin tại Pharijong : 8 người 2R.4A.) thì mới qua ải đặng. Nói rồi hai người đi liền, bần đạo ừ ừ, nhưng nhị cẳng cũng bươn bả theo họ, phải mang giày thì đi không kịp họ, đi tới khúc đường quẹo kia, hai người bèn dừng chơn nói : Quan ải trước kia, nghỉ đây, tôi đi trước rồi sau hai người sẽ đi. Issê bèn mở valise ra, lấy lễ vật sửa soạn đàng hoàng, huynh bèn ôm lễ vật ấy đi một mình thẳng đến Trấn ải quan, bảo bần đạo ngồi nghỉ, chờ trình thông hành rồi đi mới đặng. Đoạn Issê lúc khóa valise rồi, bèn bảo bần-đạo đi, thì tôi nói : Choundouss bảo ngồi đây chờ huỷnh trình rồi lại kêu đi, bây giờ huynh bảo đi, thôi đi thì đi. Lúc ấy vừa mở túi dết lấy tập sổ nhựt ký và viết ra, vừa mang kiến, ý nói ngồi đợi thì viết sự đã qua kẻo quên, huỷnh bảo đi thì có ý không vui, vì chưa kịp viết chi hết. Thôi, nhẫn tâm, kẻ bảo vậy, người bảo khác, bỏ đồ vào dết thì huỷnh đã đi trước rồi, đoạn vừa bước xuống thạch bàn thì huynh Samdhen và Thinhless với Issê đã tới. Bần đạo thuật việc Choun-douss đã đi trình passeport cho Babon, thì Samdhen bảo đi. Đi tới Quan ải địa đầu nửa Bhutan, thì bần đạo thấy bên kia suối có một cái nhà, cất theo kiểu lầu đài Tây-tạng mà bần đạo đã ngó thấy, nhưng kiểu cửa có khác. Ngang qua suối, bắt một cái cầu, trên lợp ván, hai đầu cầu có cửa cách chắc chắn. Khi qua cầu thì huynh Samdhen kêu Issê hỏi chi nhỏ nhỏ không biết, đoạn đi thẳng lại nhà hờ, lót sạp ván, huynh đệ đồng ngồi nghỉ. Bỗng Choundouss trong nhà Trấn ải quan bước ra đi thẳng lại Samdhen nói lia, đoạn thấy Sam-dhen lấy bóp tiền ra lấy tiền đưa cho Choundouss. Lúc ấy Choundouss bèn nói với bần-đạo rằng : Quan Babon đòi thêm tiền thuế hai tên mã-tử 8 annas, xấu quá. Bần đạo nói không bao nhiêu, đóng cho rồi. Đoạn huỷnh đi, mấy huynh-đệ rót trà trong chai thermo uống rồi thả đi lần, chỉ huynh Thinhless ở sau đợi mã-tử. Lúc ấy lấy réveil(1) ra xem đã 2 giờ. Huynh Samdhen đi với các huỷnh trước, bần đạo bết chưn, lục thục theo sau, đi tới một xóm nhà kia trên nổng, đường đi ở dưới thấp, có một cái nhà cầu cất đầu lộ tại nẻo bước lên xóm củi.

    Om Mani Padme Hum !

  7. #7
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 4 Mai 1936 – 14-3-â.l.

    Sớm thức dậy, Samdhen và Choundouss dẫn nhau đi đem lễ vật lại Baha nữa, và trở về bưng lễ vật đi viếng các chỗ nữa. Bần-đạo và Thinhless ở nhà coi đồ, còn Isess thì lấy đồ lama mặc đi dạo phố. Mười một giờ rưỡi, họ về. Đoạn có người lại mời Samdhen lại nhà Radja hầu chuyện, tục của họ, đi đâu phải đem chén riêng của họ theo đặng dùng trà. Samdhen có nói với bần-đạo, ngày mai sẽ đem bần-đạo đi ra mắt Baha. Các huỷnh đi, kẻ đi đầu nầy, người đi đầu kia. Bần đạo ở nhà viết nhựt ký, rồi lấy máy chụp hình bỏ vào áo xuống lầu đặng lén chụp hình nhà Baha và đền đức Đại-vương với nhà trên đảnh. Đoạn trở về chỗ ngụ rủ Isess đi dạo phố phường. Huỷnh bảo Thinhless coi đồ, hai huynh đệ xuống lầu đi, xuống tới đầu dốc đường qua nhà cầu chùa Kinh-đô phút gặp huynh Issê đi về, có người bưng nổ và các vật thực đi với huỷnh. Huỷnh bảo Isess trở về sắp đặt thâu đồ nấu ăn, nên huỷnh phải trở lại. Thì Issê nói : Lama và Choundouss đã về tới cầu kia, thầy đi thẳng lại đó sẽ gặp, bần đạo đi thẳng xuống dốc thì thấy hai thầy trò về. Samdhen hỏi : Thầy đi đâu ? – Tôi muốn đi dạo xem phố phường. Huỷnh bèn bảo Choundouss dẫn đi. Tới chỗ họ bày hàng bán theo lề đường, chớ không có chợ thì Choun-douss dừng bước, bần đạo cũng y theo huỷnh, đặng xem dãy bán đồ, thì phần nhiều là vật ăn, lê lần bước tới người thứ tư thì Choundouss có quen nên ngồi xuống, thì tên bán đồ kêu cô bán xăng lại mua đãi Choundouss. Bần đạo dòm thấy một cái đãy(1) kiểu Bhutan, bèn hỏi mua, Choundouss hỏi giá cả thì tên bán đòi 1 rupee anglais, tôi nói mắc, bèn trả tới 12 annas, chịu bán, bèn lấy tiền trả và mua thêm sợi dây cột giày Bhutan giá 10 annas Tây-tạng. Đoạn xem một hơi nữa thì không vật chi đáng mua làm kỷ-niệm. Huynh Choundouss uống thêm một ống tre xăng nữa rồi đi chỗ khác. Lên dốc chùa gặp một người ngồi bán sau chùa, thấy cái ống khóa Bhutan, muốn mua, hỏi giá đòi 1R.8A. anglais, mắc quá, thôi đi. Choundouss bèn dẫn đến xem chỗ nữ-công, vào đó thấy bốn cô dệt vải, hàng, gấm, thiệt bỏ màu tốt đẹp, nhưng tơ chỉ thô lắm, song cũng đáng khen, vì xứ ta nữ-công thua xứ người, chỉ xuất tiền mua mà thôi, đoạn về, thì huynh Samdhen bảo ngồi nhậu trà ăn nổ. Kế huỷnh bảo thôi sẵn dịp Choundouss đi lại Bahalama thầy hãy đi với huỷnh lại ra mắt Baha cho rồi, vì tôi có nói trước với ngài rồi, chớ mai sẽ nhiều người lắm. Theo chơn Choundouss lại nhà thiền Baha, vào đó thì huynh Choundouss đảnh lễ, bần đạo bước tới trước Đại-đức cũng đảnh lễ và bước lại cúi đầu trước pháp tòa của ngài, ngài bèn cúi đầu đụng đầu bần-đạo mà đáp lễ. Đoạn thối lui đứng một bên Choundouss, thì Đại-đức hỏi, Choundouss thuật việc bần-đạo là hội-viên của hội Đại-bồ-đề ở Bodh Gaya theo Samdhen đi Tây-tạng, thì Đại-đức nhìn bần-đạo và chắc lưỡi có ý thương và khen ngợi (ấy là tục của họ, chắc hít là tỏ ý chịu và thương). Đoạn Choundouss chỉ qua phía tay trái, bần đạo dòm theo, bèn thấy chỗ thờ Phật thì thẳng lại lễ bái, đoạn Baha bảo trị-sự rót nước sửa soạn nơi bàn cúng dường Phật, thì Choundouss biết nên bảo bần-đạo lễ bái nơi ấy nữa, rồi cũng thối-bước đứng bên Choundouss dòm xem Baha, thì tác còn nhỏ, lối 40 ngoài, tôi vẫn nhớ mặt ngài có đến Phật-đà-gia. Đoạn ngài bưng bát cơm trước tợ ngài, kêu Choundouss bảo dùng, Choundouss bước tới bợ tay vào khều chút ít vào tay rồi thối lui bỏ vào miệng, rồi bảo bần-đạo bước tới thọ thực, thì bần-đạo cũng làm y theo huỷnh. Rồi hai huynh đệ xá kiếu đi về, ra tới căn phòng trống thấy một vị lama đương ngồi vẽ, trước mặt có căng bố trắng, trên bố có vẽ họa đồ (plan) chùa tháp Phật-đà-gia. Coi cách vẽ là kiểu âu-châu, ngay thẳng bằng nét, khen thầm. Đạo huỷnh đi lại phòng kế đó, bước vào thấy hai vị lama ngồi may đồ y phục, kế đó có cái đơn một vị lama (chắc là thơ ký) nên thấy ngồi viết kinh. Trước đơn tợ có khám(1) thờ đức Chuẩn-đề. Xem rồi bèn xá kiếu về… Samdhen hỏi đã ra mắt Baha rồi hé. – Rồi. – Thôi uống trà và dùng bột sadou. Vưng theo ý người, ăn rồi nằm nghỉ 15 phút, kế chỗi dậy bóp cẳng, còn nhức mỏi quá. Đoạn 4 giờ trời mưa rỉ rả, hơi lạnh đã thấm, mình mẩy rởn óc cả. Tối lại 8 giờ huynh-đệ họ ăn cơm, bảo bần đạo dùng, bần đạo từ hẳn. Đoạn họ đánh phé ăn đột bàn tay tới 10 giờ rưỡi ngủ. Đêm nay bần-đạo ngủ vùi vì sự mỏi mê ba ngày đường.

    Om Mani Padme Hum !

  8. #8
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 18 Mai 1936 – 28-3nh-â.l.

    Sớm mơi uống xăng ăn sadou, đợi đốt đá đỏ rồi sẽ đi dầm. Bần đạo lấy valseline mentholée thoa mặt cho Issê bị té sưng mặt mày, đoạn lo đi dầm nước đá nóng, mơi một lần, chiều một lần. Cả thảy huynh đệ đều dầm, trừ Machen Isess không chịu dầm. Đêm nay ngủ khỏe khoắn. Ngày nay cạo đầu. Ăn ngọ rồi, bần đạo ra bóng cây ngồi cạo đầu, cạo nửa cái đầu, thì Issê Sonnam ra thấy bèn cạo giùm. Hoan-hỉ.
    Mấy ngày rày chiều rảnh học thêm tiếng Tây-tạng.


    Ngày 19 Mai 1936 – 29-3nh-â.l.

    Nhựt thường, sớm điểm tâm rồi lo đi dầm nước đá nóng. Đoạn 9 giờ ăn bột với canh, ăn rồi đi ra bóng cây nằm nghỉ. Một giờ lo sắm sửa thu xếp đồ đạc đặng trở về Quốc tự, chờ coolie tới mang đồ. Hai giờ trời mưa bộn, lạnh. Bần đạo nằm ngoẻo dựa trên gói hành lý, qua 3 giờ rưỡi trời bớt mưa, đoạn huynh Samdhen bảo Issê Sonnam, Isess và bần đạo, bốn huynh-đệ về trước, để Issê và Choundouss ở lại đợi coolie. Trời còn mưa rỉ rả, huynh đệ thả về lần. Tới Quốc tự vào liêu nghỉ ngơi. Isess lo nấu trà. Đoạn có Tênzi đến, bần đạo bảo ngồi nghỉ, huỷnh ngồi rồi mở khăn gói cơm ra ăn, bần đạo còn bột sadou và đồ ăn phát hồi 1 giờ rưỡi không ăn, cho huỷnh ăn. Đoạn trà đã khuân lên, uống trà. Qua 6 giờ, coolie vác đồ về tới, trời vẫn còn mưa lâm râm, lạnh lắm. Tám giờ tối mới ăn cơm. Đêm nay ngủ khỏe khoắn.


    Ngày 20 Mai 1936 – 30-3nh-â.l.

    Nhựt thường, điểm tâm rồi tụng kinh. Kế có một cô lại xem quẻ cùng Samdhen, rồi việc cô lãnh phép và thuốc về. Đoạn 10 giờ rưỡi. Isess, cơm khuân lên, chư huynh-đệ đồng cúng dường rồi ăn ngọ. Đoạn 1 giờ chư huynh-đệ sắm sửa đi Pháp đàn, rủ bần đạo, bèn từ kiếu xin ở nhà. Vì đã có đi một lần rồi, đã dự biết phong-tục hữu-vi pháp của chư tu hành Bhutan rồi, nay có đi cũng vậy. Isess cũng ở nhà. Đoạn các huỷnh đi, hai huynh-đệ ở nhà nghỉ ngơi. Ba giờ thả đi ra cầu chùa đi tới ngũ tháp Trấn-quan cựu thì hai huynh đệ dừng bước xem chơi, huynh Isess bèn nói : năm tháp đây là : tháp lớn ở giữa là Trấn-quan cha, bốn tháp chung quanh là Trấn-quan con. Bần-đạo hỏi : còn Trấn-quan hiện tại phải là con không ? – Không, cha của ngài đang làm quan tại Kinh-đô Bumtăng. Đoạn hai huynh-đệ rủ nhau đi hái rau húng-lủi theo bờ ruộng ở gần đó. Hái rồi trở ra ngũ tháp, Isess rủ đi lại mé lộ xem trẻ nhỏ thảy lỗ bằng đá hòn. Chập lâu đi về, bần đạo nghỉ ngơi, còn Isess lo nấu trà đợi Samdhen về uống. Kế 6 giờ huynh-đệ nơi Pháp đàn về uống trà nghỉ mệt. Tám giờ họ dùng cơm mời bần-đạo song bần đạo rằng êm ruột không dùng. Ngủ. Đêm nay thức tới khuya chưa ngủ, đến lúc ngủ lại chiêm bao thấy chú cả Êm và ông nhạc-gia, hai người đồng đi cúng dường nơi một cái nhà của một ông thầy pháp. Thức giấc rồi ngủ lại.

    Om Mani Padme Hum !

  9. #9
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 24 Mai 1936 – mùng 4-4-â.l.

    Nhựt thường lệ. Sáng Choundouss về. Samdhen nghe nằm lì, chập lâu dậy, song không nói tới Choun-douss. Trà điểm tâm cũng không dùng, ngồi day mặt nơi khác. Đến lúc Choundouss bước ra thì huỷnh mới chuyện vãn. Bữa cơm 9 giờ, huỷnh không dùng chỉ uống chút xăng, khi Choundouss đi thì huỷnh mới trò chuyện. Thôi sự của người ta mình không nên xen vào và cũng không nên động tâm, mặc tình huynh đệ họ, để coi cách họ đối đãi nhau sao. Bần đạo lãnh phần cơm rồi giặt hậu (áo hậu) chờ tới 11 giờ ăn ngọ. Ăn ngọ rồi nghỉ trưa.


    Ngày 25 Mai 1936 – mùng 5-4-â.l.

    Nhựt thường lệ, bữa nay Samdhen và Choundouss đã hòa, bần đạo mừng lòng, họ vui mình mới an lòng. Buổi cơm 9 giờ cũng lãnh phần cơm để chờ tới ngọ mới cúng dường và ăn. Huynh Samdhen sình ruột phải uống xăng, mời bần đạo dùng, nhưng bần đạo từ chối.


    Ngày 26 Mai 1936 – mùng 6-4-â.l.

    Bữa nay ăn ngọ cơm và muối vì không có rau. Họ ăn lúc 9 giờ, bần đạo cùng lãnh phần cơm chờ tới ngọ mới cúng dường rồi ăn. Ngày nay Trấn quan sẽ đến ngụ tại phòng tư của ngài nơi Quốc-tự. Quan lại và dân lo dọn dẹp quét tước tưng bừng. Chiều ngài thân hành đến. Ngài khi nào muốn hành đạo (tụng kinh) bất câu mấy ngày, thì đến liêu riêng của ngài nơi Quốc-tự. Bình thường thì ở nơi quan nha cách chùa chừng một cây số ngàn.


    Ngày 27 Mai 1936 – mùng 7-4-â.l.

    Nhựt thường lệ. Chín giờ cũng lãnh phần cơm chờ tới ngọ cúng dường rồi dùng. Bữa nay có cải bẹ xanh, bần đạo chấm muối ăn sống, lâu ngày đạm bạc thật vừa miệng. Ăn ngọ rồi không chi vui dạ, bèn ra hàng ba làm quen với Lama họa sư ngồi cho màu giùm cái họa đồ của huỷnh. Huynh đệ thấy bần đạo cho màu, đều xúm lại xem, trầm trồ gọi tốt. Lama mời xơi trầu cùng cao tầm dung.


    Ngày 28 Mai 1936 – mùng 8-4-â.l.

    Nhựt thường lệ, điểm tâm nổ với trà, đoạn ra ngoài cùng cho màu họa đồ chơi cho qua buổi. Đoạn 9 giờ Samdhen dùng bột sadou với beurre bỏ muối, chia cho bần đạo và Choundouss ăn. Còn mấy huynh kia xơi cơm. Đến giờ ngọ, không có cơm, bần đạo dùng bột xú còn dư với muối. Lúc 9 giờ rưỡi có cô xem quẻ hôm nọ dắt lại một cô có con, xem quẻ cho đứa con, xem rồi thỉnh Samdhen đến nhà cúng giùm. Mười giờ Samdhen, Choundouss, Issê Sonnam đồng đi. Bần đạo khi dùng ngọ rồi, một mình thả xuống suối tắm sơ vì nước lạnh quá, bị mưa luôn cả đêm nên ngày nay, trời ấm cũng lạnh hơn các bữa. Tắm rồi thả dọc lối Quan nha rồi về đã 2 giờ, nghỉ mệt.
    Tối nầy Samdhen không về, thầy trò ngủ tại thân chủ gia.

    Om Mani Padme Hum !

  10. #10
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 16 Juin 1936 – 27-4-â.l.

    Nhựt thường lệ, điểm tâm rồi, cùng chư huynh đệ Samdhen làm đầu, đồng đi xem thành phố, chợ nhóm. Quanh quẹo con đường, trải phố nầy nhà kia quán nọ, phút thấy chùa : cất kiểu Tây-tạng, trên tháp bằng đồng như tháp Népal nhưng nhỏ hơn. Samdhen nói chùa nầy 1000 tăng chúng. Chùa nhỏ hơn chùa tại Lhassa. Bần đạo xem qua, tưởng rằng : nhỏ của nước người, song lớn và đông hơn xứ mình, phút tới chợ nhóm, buôn bán, đồ Anglais có, đồ Tây-tạng có, đồ Népal có, vì có chút ít người Népal đến ngụ tại đây. Lúc đi cũng đã có gặp một, hai người Népali. Xem rồi các nơi buôn bán hai bên lề đường phố và chùa. Bần đạo mua hai cái hộp quẹt (anglais) giá 8 sous Tây-tạng và cải củ giá 18 sous với 12 sous đồ bột cà-ri và 4 sous ớt bột. Bỗng có người lính tuần cảnh tại China đi Lhassa về tới đây, gặp Samdhen mừng rỡ và mời về chỗ ngụ. Samdhen và Choundouss đi, bần đạo không đi, cùng hai người Bhutan xẩn bẩn theo quán chợ nhóm xem, bỗng gặp Issê và Sonnam đến, cùng nhau rảo một chập nữa. Issê bèn rủ đi vòng xem thành phố và về luôn. Lúc đi ngang qua một dãy nhà thấp hẹp, dòm vào tối tăm. Issê bèn nói : đây là nhà hàng Tibet. Đi lần lượt tới Post-office và Hospital civil, kế tới nhà ngụ là 11 giờ. Bước lên lầu thấy Samdhen ngồi trước phòng, Isess bán gạo. Bần đạo vào đơn, xắc củ cải, rồi ăn ngọ bột với lá củ cải chấm nước muối ớt. Còn củ cải rắc muối để dành nấu mai ăn ngọ. Chiều lại họ ăn cơm với nhau, bần đạo chỉ giữ lệ ngọ trung rồi thôi.

    Đoạn tối bàn luận cùng nhau. Samdhen hỏi bần đạo, Quốc độ của thầy niệm Nam mô Buddha, Darma, Sangha rồi thôi sao ? Tôi thường nghe cả thảy chư Bí-sô Ceylon niệm ba bực đó thôi, không như Quốc độ Tibet thường niệm bốn : Nam mô Guru, Buddha, Darma, Sangha. Có vị Bí-sô Burma cãi với tôi, tôi nói : Nếu không có thầy giảng dạy làm sao biết pháp Phật tu hành, nên chi phải niệm Guru là thầy trước. Bần đạo rằng : Phái tiểu-thừa niệm ba ngôi, còn đại thừa niệm bốn ngôi. Phải vậy. Đoạn huỷnh hỏi tôi : Nalanda là nơi chư La-hán tả kinh luật, vậy thầy có nhớ vị nào hội chép kinh luật chăng ? – Bần đạo nói : Nalanda là nơi Darma địa, khi Phật niết bàn rồi thì chư đệ tử nhóm lại tả kinh, luật, luận. Tôn giả Ca-diếp (Kassyapa) ngài Chấp chưởng Tăng già theo lời di chúc của Phật và đặng truyền y bát là bực nhứt tổ (Sơ tổ sư). Ngài nhóm chư La-hán tại Nalanda mà lo chép kinh, thì Ananda nói kinh, Upali nói luật, còn Ca-diếp thì tăng-già. Sau đời vua Asoka thì nhóm tại Patna Kinh đô. Samdhen bèn bảo Choundouss biên vào sổ tên ba vị La-hán tả kinh như lời bần-đạo. Đoạn huỷnh nói : Khi tới Lhassa, tôi sẽ đem thầy ra mắt một vị Đại-đức Bahalama biết đủ thứ tiếng. Ấy là đức Phật-tử Rahula tái sanh. Ôi ! thầy thấy đặng ngài thì thầy sẽ biết, thiệt quang minh tướng mạo, mũi ngay, tai lớn, mắt to sáng suốt như sao. Ngài nghe đủ thứ tiếng, thầy đến ra mắt ngài và nói tiếng Annam rất tiện. Tổ sư sẽ trả lời bằng tiếng nước của thầy và sẽ nói cái trình độ tu hành của thầy và sẽ giáo hóa thầy, còn nhiều vị Bahalama nữa, tôi sẽ đem thầy ra mắt đủ hết. Vì khi thầy còn ở Ghoom, lúc ra mắt Bahalama Dromo Gheshay, thì ngài có bảo tôi, khi đến Lhassa phải đem thầy viếng cả thảy chùa và ra mắt cả thảy chư Bahalama và đức Quốc Vương Tây-tạng.

    Bần đạo nghe qua bèn chấp tay nói cám ơn Đại-đức Bahalama Ghoom và huynh. Lúc còn ở Bodh Gaya thì tôi có ra mắt ngài và huynh có thuật việc tôi muốn đi Tây-tạng, thì ngài có nói : Đặng lắm và đi không khó nhọc chướng ngại chi cả. Lời tiên tri ấy, đến nay cũng y nguyên. Đoạn huynh đệ nghỉ.

    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •