Ngày 25 Avril 1936 – mùng 5-3-â.l. Samedi – Saturday.
Không chi lạ, sớm điểm tâm bột nếp. Mười giờ cũng bột nếp. Hai giờ cũng bột nếp.
Ngày nay hết gạo, dùng bột. Chiều có một cô đem gạo Bhutan lại bán. Xứ nầy núi non nên lúa gạo kém lắm. Huynh Samdhen là người nhẹ trí, sợ bần đạo dùng bột sadou không đặng nên cứ hỏi : Lama chiếp sadou ach xa hay ? Thấy vậy cũng cảm tình. Hai ông bà chủ gia, đã quen rồi cứ mời hơ lửa, lấy ghế mời ngồi gần bếp, còn bà thì hôm qua nay, cứ nói tiếng Hindou với tôi và một, hai tiếng ăng-lê.
Ngày 26 Avril 1936 – mùng 6-3-â.l. Dimanche – Sunday.
Bữa nay thức dậy, như thường. Chín giờ ăn bột, dạo xem xóm với Choundouss. Mười một giờ tên coolie đã gởi thùng Phật tượng tới. Có bổn đạo đem tống lễ, vì ngày mai lên đường. Huynh Choundouss và Issê ăn bột rồi 12 giờ quảy gói đi trước. Thu xếp hành lý, ba huynh đệ sẽ đi sau. Mướn ngựa chở đồ. Từ Chima đi Pharigiung. Ngựa cỡi giá là 1 rupee 8 annas.
Ngày 27 Avril 1936 – mùng 7-3-â.l. Lundi – Monday.
Tạm biệt xóm Chima. Mười một giờ rưỡi vô chợ Xá-xinh-ma (của Ăng-lê, trả tiền đất), chợ phố kiểu Englis, có sân banh. Hai giờ rưỡi tới Galinhka (village) có viếng chùa nhỏ của Dromo Geshay Baha lama hồi 6 giờ rưỡi, có cúng 1 rupee. Có gặp Lama mập Tong-gá-goompa (unhiba). Huynh đệ đồng nghỉ tại Sangha chùa. Tỉnh Yalong.
Ngày 28 Avril 1936 – mùng 8-3-â.l. Mardi – Tuesday.
Bốn giờ sáng huynh Issê và huynh Thinhless độ thùng coolie Phật cốt đi trước.
6 giờ ăn bột nhồi uống trà.
7 giờ tạm biệt Galinhkha.
12 giờ tới xóm Đôđặk (đôtặk). Gặp hai huynh Issê và Thinhless tại quán. Xuống ngựa tạm ngồi trước sân, ăn nổ (Pharigiung) ăn sadou uống trà.
1 giờ lên ngựa đi. Hai huỷnh mang nặng sẽ đi sau.
5 giờ rưỡi tới làng Pharigiung, ghé nhà quen nghỉ. Chỗ nầy nước độc xấu hơn các nơi.
7 giờ hai huynh đã tới. Mã tử trở về Chima.
Ngày 29 Avril 1936 – mùng 9-3-â.l. Mercredi – Wednesday.
Bốn giờ đã thức ngồi thiền một hơi. Lạnh quá nằm nghỉ lại. Năm giờ bà chủ thức nấu nước, bần đạo ngồi gần lò viết việc đã trải qua hôm qua.
Ăn ngọ bột sadou. Samdhen và các huynh đi viếng bổn-đạo và ra mắt người lớn trong làng Pharigiung nầy. Đợi mướn đặng ngựa sẽ đi. Mượn đổi 10 rupee tiền Tây-tạng. 1$ tây-tạng 30 anas de 4 pèns = là 120 sous.
Đi viếng chợ, phố xá, đường xá dơ hết bực, có nhà người Ăng-lê ở xa chợ. Đi ngang qua nhà hàng, huynh Choundouss bảo vô, tôi biết sự dơ của họ, bèn từ chối, kiếu. Để mắt xem cảnh vật dường có vẻ thương tâm, núi bao tuyết giá, ít thế sanh-nhai, nhơn dân có mòi đồ khổ, ngày chí tối áo không thay, quần không đổi, nam nữ đồng một thể, quần áo dày dục tợ bố tời đất khác, nai nịch kỵ hàn cả tháng cả năm, không hay tắm giặt. Sự dơ dáy thân hình nói không cùng, nhưng tâm tánh không nước nào sánh lại. Chỗ hiền từ, lòng kính Phật, mến tăng, cả nước đều vậy.