DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 3/3 ĐầuĐầu 123
Hiện kết quả từ 21 tới 30 của 191
  1. #1
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 21 Juin 1936 – mùng 3-5-â.l.

    Sớm mơi thức dậy, Samdhen có hơi bẽn lẽn cùng cô chủ gia, song cũng rán giả lả hỏi han chuyện vãn, rồi lấy 3 R đền đáp tiền phòng. Bần đạo có viết thơ gởi về Nam Việt. Samdhen mượn cô chủ cho người bỏ thùng giùm có đưa vài cắc tiền nước.

    Đoạn 8 giờ điểm tâm vì có mã tử đem bốn con ngựa lại rồi, ấy là ngựa hộ tống, vì Samdhen có quen với Bơda-Alessir Trấn quan nguyên nhung tại Giăng-sê, nên có xin trát quan, đặng đến các trạm trình cho quan, làng sở tại đặng mướn ngựa giùm, chỗ nào ở ngụ đêm thì có chỗ ăn nằm tử tế và có củi nước đủ lẽ, nếu không có trát ấy, dầu có tiền cũng khó kiếm chỗ ngụ, khó mướn ngựa, khó có củi nước.

    Thiệt cũng đáng kính tánh ý lanh lợi xử thế của huynh Samdhen, lấy tép nhử tôm, đem cơm đổi gạo. Làm quen các nơi danh tộc hào phú, quan dân, nhờ vậy mà đi tới đâu cũng đặng người kính mến và nội bọn an ổn, bần đạo dựa chút hơi ấy mà đặng trải qua các hiểm trở đất Tây-tạng.

    9 giờ ngựa gác yên xong, bốn huynh đệ đồng tạm biệt Yangksê thành, chào chủ gia, xuống lầu lên ngựa. Đường đi cũng dễ, chỉ có một cái đèo cao mà thôi, còn bao nhiêu đều là đường bằng. Các huynh quen theo phong thổ, cả thảy nhơn dân đều biết cỡi ngựa làm chưn, nên lên lưng ngựa giục sải, tế như bay. Còn bần đạo mẹ đẻ đến lớn không biết cỡi ngựa, vì xứ Việt-nam, đường sá thông thương, xe hơi, xe ngựa hằng dùng, nên không biết cỡi ngựa, ngựa đi thủng thẳng thì đặng, bằng nhảy sải, thì hỏng đít hòng té xuống đất, nên đi sau chót, cho nhảy cà xọt, đau đít đau hông, nhưng cũng rán mà theo họ, nếu không thì lạc đường. Niệm Phật mà đi. Tới một khoảng đường kia, mấy huỷnh dừng ngựa chờ, khi bần đạo tới thì Samdhen nói : Sao lâu vậy, đường xa mà đi vậy thì không tới sớm đặng. Bần đạo có ý buồn lòng, trả lời rằng : Mới lần thứ nhứt bần đạo cỡi ngựa, cỡi đi lung quá không đặng, mấy huynh cứ việc đi trước, bần đạo lần hồi theo sau, nói rồi họ đi. Coi ý huynh Samdhen giận, bần đạo nhẫn nhục đi sau 10 giờ rưỡi thì họ đã tới làng Guôi-si, ghé đổi ngựa. Bần đạo bị đi sau, nên lúc qua cầu Guôi-si thì cho ngựa đi thẳng, vì ngỡ mấy huynh đã đi xa rồi. Bỗng có một cô Tây-tạng chạy sau kêu ngừng ngựa, bần đạo bèn quày ngựa lại, tới cô Tây-tạng xuống ngựa, cô dắt ngựa vào nhà trạm, bần đạo theo sau, khi vào đó thì thấy mấy huỷnh đã ăn bột uống trà rồi.

    Choundouss mời ngồi rồi bảo dùng bột và trà, rồi đổi ngựa đi nữa. Samdhen ngồi trong đơn ở trong phòng yên ổn không quở tới bần đạo, nhưng bần đạo an lòng nhẫn nhục, vui cười với Choundouss và nói : Con ngựa đi không đặng, bần đạo bị nó nhảy cà xọt nên mệt quá, và nói và cười, ăn sơ sài bột, uống sơ vài chén trà, đoạn Samdhen trong đơn bước ra, bần đạo dã lã cười nói, hỏi : huynh trà rồi sao ? Đoạn huỷnh thấy bần đạo tươi cười thì huỷnh ăn năn bèn nói : Thầy hãy dùng bột cho khá vì đường còn xa. Bần đạo nói : ăn rồi, ăn rồi, bèn đứng dậy ra giúp người gác yên ngựa. Cô chủ nhà cầm cái trát xem rồi, trao lại cho Samdhen. Ngựa xong rồi 11 giờ rưỡi lên đường, chuyến nầy đặng con ngựa đi chạy, êm ái, bần đạo không sút tấc đường cũng đồng với các huỷnh. Hai giờ tới làng, trình trát xin đổi ngựa, nhưng có một cô chủ gia kia đứng dưới ngựa xá Samdhen xin tạm nghỉ mai lên đường vì ngựa ở xa đổi không kịp. Huynh Samdhen cũng hoan hỉ vì tiếng nài nỉ. Cô nọ bèn dắt thẳng về nhà, đơn tợ tử-tế. Không có đồ ăn chay, nên Samdhen mượn cô chủ gia mua hột gà ăn đỡ.

    Om Mani Padme Hum !

  2. #2
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 22 Juin 1936 – mùng 4-5-â.l.

    2 giờ sáng thức, trà nước xong, 4 giờ lên ngựa 9 giờ tới làng Gialum đổi ngựa, ăn bột ngọ rồi 10 giờ rưỡi lên ngựa lối 1 giờ tới một chỗ núi trùm tuyết trắng phao, huynh đệ đồng xuống ngựa nghỉ đoạn thấy cảnh tốt, bèn chụp hình rồi trà nước nghỉ một chập lên đường. Ba giờ chiều tới xóm Gia-ra, xuống ngựa vào nhà trạm cận đường nghỉ ngựa, thì đã gặp các huynh đi trước với toán la chở hành lý. Cùng nhau xăng, trà, bột rồi hỏi thăm làng Năng-cann-sê đường còn bao xa, thì chủ gia nói còn xa lắm, nếu đi bây giờ thì khuya mới tới, tốt hơn là nghỉ đây sáng đi. Nghe qua, Samdhen bảo các huynh Isess, Issê và hai huynh Khampa lo đi trước với hành lý. Bốn huynh đệ ở lại nghỉ, mua cỏ cho ngựa ăn, nghỉ đêm tại đây. Thương thay Samdhen cả buổi chiều cho tới khuya bị kiết, đi ngoài liền đeo. Phần chốn nầy núi tuyết tứ phía bao quanh, thêm gió thổi nên lạnh lẽo hết sức, huỷnh đi hoài mệt lắm, lạnh lắm. Khuya huỷnh nghỉ êm. Bần đạo bốn lớp mền còn lạnh, phần bị ngủ dưới đất không đơn, giường chi hết, phần vách đá không tô, hơi lạnh càng thêm. Đêm nay bần đạo không ngủ.


    Ngày 23 Juin 1936 – 5-5-â.l.

    Sáng trà nước xong, Samdhen hết kiết. Sáu giờ rưỡi lên ngựa đi, ngựa chạy, gió dồi, tuyết lạnh, đi tới làng Năng-cann-sê đã 10 giờ rưỡi. Lúc ấy thì đã có chư huynh đệ đi trước hôm qua, đứng chực đón. Xuống ngựa vào nhà của một vị chủ gia quan lại nghỉ. Làng nầy đông đảo, có hồ nước chạy dài theo chưn núi, đây có đài quan cất trên đảnh xem ra cũng oai nghi. Isess xầm xì to nhỏ, ý nói nhà quan trang nghiêm, giàu có. Samdhen nghe qua, sắp đặt đơn tề chỉnh, chủ gia có cho một cô tiểu nữ hầu trà nước. Isess vào ra, dường như làm chim mồi nói năng cùng chủ nữ, nên chi chủ nữ mới xin coi quẻ. Isess vào nói nhỏ với Sam-dhen, huỷnh lại càng khoái ý nói : Đặng. Họ xầm xì, nhưng cử chỉ ấy bần đạo đều thấu đáo. Isess đi hỏi tuổi, chập lâu vào nói : Samdhen xủ quẻ, làm mặt. Xem quẻ rồi viết các việc trao cho Isess đem cho chủ nữ. Lạ chi cái thói đờn bà ham điều dị đoan, và buộc đờn ông cũng thuận theo họ. Đoạn một chập chủ gia vào ra mắt Samdhen tỏ ý cám ơn và xin phái quy y nội nhà. Samdhen càng khoái ý, làm mặt làm mày, lấy phái đã làm sẵn, đem ra làm đủ lễ, niệt, chú đủ điều, Isess làm sứ đệ đi. Chừng ông chủ gia mới đem thịt dê khô và tiền lễ vào dưng, huynh đệ họ coi bộ khoái lắm. Biết đặng một nhà thì ra quen cả xóm, bọn con cái và bà chủ nhà đi cùng các nhà hào hộ trong làng đồn nói rủ ra, nên cả buổi chiều sáu, bảy cô ăn mặc tử tế, đầu cung diện ngọc tới xin xem quẻ, xin phái, xin niệt, thi lễ cúng dường, Samdhen càng bày vẽ linh đình. Kế kẻ ít tiền đem chút ít tiền thỉnh niệt, tới khuya rồi việc. Huỷnh còn phòng hờ giờ sáng, lấy vải vàng vải đỏ xé làm niệt, hỏi bần đạo có vải vàng, cho huỷnh. Bần đạo nói có cái y ngũ điều đó huynh dùng thì dùng. Huỷnh lè lưỡi, rằng không dám. Đoạn ngủ.

    Om Mani Padme Hum !

  3. #3
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 24 Juin 1936 – mùng 6-5-â.l.

    6 giờ uống trà, huỷnh nghe ở ngoài có tiếng, hay tiếng giày thì ngóng cổ qua cửa sổ dòm chừng ấy là tưởng cho còn ai tới xem quẻ hay cần thọ phái hoặc xin niệt. Vì ngày hôm qua tiền công quả trên 1 rupee.

    Ngóng không ai, 7 giờ xứ nầy mặt trời lên cao bằng xứ ta 10 giờ, vì 4 giờ sáng đã có mặt trời lên cả sào. Đoạn ngựa gác yên rồi, đồng lên đường, ngựa không mấy mạnh, xấu mã lắm, đi lối sáu, bảy cây số thì mã tử vào làng đổi ngựa, không vào xóm, ngồi đỡ ngoài bờ lộ chờ. Đoạn có ngựa, đồng đi tới 12 giờ rưỡi thì tạm ghé làng Pê-tê, đổi ngựa và ăn ngọ luôn và nghỉ luôn đêm tại trạm nầy.


    Ngày 25 Juin 1936 – mùng 7-5-â.l.

    Sáng thức sớm, 5 giờ lên ngựa đi, ngựa lên đảnh núi Nhaip-xốc-la (nhaip là đất, xốc là lưng) lên đèo nầy ước vài giờ mới tới đảnh, xuống ngựa, vì xuống cái dốc ải nầy, ngựa dắt đi còn trợt lên trợt xuống, hà huống là cỡi. Đi bộ trút 3 giờ đồng hồ mới tới triền bình địa, mệt ngất lên ngựa đi tới 10 giờ rưỡi tới làng Dum-bô-chê xóm Nhaip-xốc. Vào xóm trình trát, có quan lại tiếp trát xem, đoạn mời vào căn nhà có đơn tợ tử tế, uống trà đợi đổi ngựa. Đoạn 11 giờ rưỡi ngọ bột rồi lên ngựa đi, 12 giờ rưỡi thì tới bến đò. Mã tử dắt ngựa về. Samdhen nói : Thầy ở đây ngủ một đêm với Issê và hai người Khampa, còn tôi cùng Choundouss, Isess và Sonnam qua đò vào làng xin mướn ngựa rồi đi luôn đàn bộ đến Xú-xuol, còn thầy sáng đi đường thủy với ba huynh đệ kia. – Đặng. Đoạn ba huỷnh xuống đò bằng da đi qua bến bên kia xóm. Trên núi mà có ngọn hồ nầy, hỏi ra giòng 50, 60 cây số. Khi họ xuống đò, bần đạo có chụp hình. Chừng họ qua bển rồi, thì bần đạo lại bến đò cùng hai huynh Khampa đem hành lý lại chỗ bến chất đồ gần đó mà nghỉ. Chập lâu thì người ngựa Issê đã đến, toán la chở 12 bao da gạo và rương với hành lý đã đến, chất các vật trên bến, mã-tử và la-tử trở về, có huynh Tanzine Guêgane cũng tới, năm người đồng tạm nghỉ nơi bến. Sẵn nước bần đạo bèn giặt áo, khăn, vớ, mũ, đoạn tắm sơ. Nước ngọn hồ nầy có chỗ chảy mạnh có chỗ ương, chỗ bến nầy nước rỉ rả chảy, nước hơi đứng. Nước cũng lạnh như đồng, tắm sơ lược thôi. Chiều lại đồ khô, mặc vào, kế gió thổi cát bay lấp đầu cổ, quần áo trắng phao. Issê bàn lấy vải che sơ gần đống thùng chất của bọn Népal chỗ khuất gió, lấy đồ ngủ của bần đạo trải rồi mời lại tạm ngồi trốn gió. Cám ơn huỷnh, lại đó ẩn gió đỡ quá. Mấy huỷnh bèn lấy đá làm táo nấu trà uống và nấu ăn chiều. Các huỷnh đi rảo trên bến lượm phân bò khô đem lại lò lấy ống bễ da thổi lửa nấu ăn. Cách nầy cũng ngộ, nhờ ống bễ, phân bò cháy có ngọn không sợ gió, lại mau sôi mau chín, bần đạo ngồi xem cách họ cực lực vì bữa ăn chiều cũng khá thương. Họ ăn uống rồi thì kế trời có hơi muốn mưa, vừa rớt hột thì họ lấy vải căng che chỗ bần đạo ngồi, song mưa vừa ướt áo rồi thôi. Cả buổi tối tới khuya mới hết gió. Năm huynh đệ chèo queo ngủ. Bần đạo ngủ gần huynh Tanzine Guêgane, khuya thức giấc thì trăng đã gần chen lặn. Chung ra ngoài, hết gió, ít lạnh, ngồi ngoài hút tàn một điếu thuốc, chun vào nghỉ.

    Om Mani Padme Hum !

  4. #4
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 26 Juin 1936 – mùng 8-5-â.l.

    4 giờ sáng thức dậy, lo nấu trà uống, uống chừng hai giội trà, kế bọn đò tới, chất hành lý vào hai chiếc đò da, chất rồi đồng xuống đò chèo đi. Trải qua nhiều khúc rạch hồ nước bị hàn ngăn chảy ồ ào như xối, có nhiều khúc rộng lớn mênh mông, hai bên mé nhà cửa xóm làng cũng đông đảo. Trên đảnh cây mọc không nổi vì tuyết, nhưng theo bến có chỗ xóm ở có trồng cây cối sum sê. Đi tới 8 giờ, thấy một cảnh chùa cất dựa hông núi, ngó xuống ranh hồ xem qua đẹp đẽ. Bần đạo muốn chụp hình, nhưng trời u ám chụp không đặng. Đi một đỗi nữa trời thanh tỏ lại, gặp một cảnh bến có nhà, có cù lao, có miễu, bần đạo bèn chụp ảnh cảnh ấy. Đò da lúc chậm lúc mau vì ngọn nước, hai con đò (đờn ông) hò hát u ơ chèo rỉ rả 9 giờ rưỡi tới làng Xú-soul. Đò ghé bến, chất đồ lên, Guêgane đi dọ coi Samdhen tới chưa, dọ xong trở xuống bến, vác đồ hành lý ngủ của bần đạo và dắt bần đạo đi đến chỗ ngụ, đến nơi thấy một mình Samdhen ngồi chong ngóc, thấy hai huynh đệ vào, bèn chào hỏi, đoạn hỏi bần đạo hôm qua ở tại bến đò Cô-trúc Nhaip-xốc-la tốt chăng, đêm ngủ đặng chăng ? – Ôi ! cực vì gió lung quá, cát bụi đầy mình, thêm tối trời mưa, chỗ ngủ ngắn chẳng đầy thước, cả đêm chèo queo mà chịu. Huỷnh cười rằng : Tôi hôm qua vào xóm, tới chiều mới có ngựa, ngựa lại xấu mã, cà xọt tới Xú-soul nầy cùng Choundouss 10 giờ. Isess 11 giờ, Sonnam 12 giờ khuya mới tới, tôi tới trước, xóm đóng cửa ngủ hết, kêu rát cổ mới đặng nổi chỗ ngụ lôi thôi, tôi rầy la đưa trát ra, họ mới nhúc nhích, cực quá. – Đoạn 10 giờ ăn bột với nước muối rồi 10 giờ rưỡi lên ngựa đi tới làng kia… gặp Choundouss và Isess ở dưới bóng cây chực đón, có người trong xóm cũng sẵn đó. Xuống ngựa, uống trà, uống xăng, đổi ngựa xong rồi đi, chỉ có con ngựa của bần đạo, không đổi, để đi tới Lhassa. Mười hai giờ rưỡi đi, ngựa lúc đi mau lúc chậm. Hai giờ rưỡi đã tới Giăng-mạch, huynh đệ đồng xuống ngựa vào nhà trạm nghỉ luôn đêm.


    Ngày 27 Juin 1936 – mùng 9-5-â.l.

    Sáng 6 giờ lên ngựa. 9 giờ tới Nhê-thăng, nghỉ luôn sáng sẽ lên đường, bần đạo mừng vì ngựa còn đi xa đường, nghỉ vậy tốt lắm.

    Samdhen nói : Còn 30.000 thước tới Lhassa, vậy ngày mai sẽ tới nơi rồi, bần đạo rất mừng, mấy tháng mệt mỏi, nay nghe mai tới Lhassa mừng hết mệt. Đoạn 11 giờ rưỡi ăn ngọ bột với canh cải. Đường đi từ Yangk-sê tới Nhê-thăng, khó ít vì đèo dốc ít, đường bằng lung, nên ngựa cũng dễ đi. Bần đạo nói với Samdhen đổi giùm 2 rupee tiền Tây-tạng đặng bần đạo cho huynh đệ 1 rupee ăn uống tự tứ cho vui, vì mai tới Lhassa, trải mấy ngày đường cực nhọc, nhưng Samdhen đưa 15 trăng-nga nói : ít, ít tốt hơn, nhiều quá họ ăn uống say sưa. Đoạn bần đạo lấy tiền ấy đem xuống lầu vào chỗ phòng ngụ mấy huỷnh, nói với Choundouss, bần đạo cho huynh đệ vui một bữa vì mai tới Lhassa, họ mừng rỡ tiếp lấy tiền rồi ăn uống cùng nhau, bần đạo cũng đồng ngồi hoan hỉ ít chén xăng. Tới tối khuya họ mới rã tiệc. Đêm nay ngủ êm ả.

    Om Mani Padme Hum !

  5. #5
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts


    Ngày 28 Juin 1936 – mùng 10-5-â.l.

    5 giờ sáng, trà nước xong lên ngựa, đi tới 8 giờ rưỡi tới làng Đung-gar, bốn huỷnh đổi ngựa rồi đi, 10 giờ rưỡi tới chùa tên Dzêss-bung, chùa lớn có tới 7.700 tăng chúng, có một cảnh nhỏ cận bên, hằng ngày có 100 tăng sư lo cúng dường, ấy là Tăng sư chùa lớn thay đổi lo việc. Chùa nhỏ nóc vàng chói rực. Đoạn huynh đệ đến nhà quen ngoài xóm nghỉ uống trà nghỉ ngựa, chập lâu có một vị lama đồng hương Samdhen đến, chào nhau rồi uống vài chập trà, đoạn dẫn nội bọn đi viếng chùa nhỏ. Chùa nầy là chùa Tổ, thờ các vị Lama Tổ sư tịch diệt, có cốt có y mão Quốc Vương, gươm vía, giáp sắc, mão sắc treo đầy cột hàng ba. Đoạn đi lễ bái đủ chỗ rồi thì Samdhen có cúng dường chút ít, bần đạo không tiền lẻ, nên xuôi qua. Về chỗ ngụ 1 giờ rưỡi lên đường.

    3 giờ tới Kinh-đô Tây-tạng là thành Lhassa, ngựa đi ngang đảnh núi nhỏ trên có cất nhà, xem ra tốt đẹp, dãy dọc, dãy ngang, hỏi ra là nhà dưỡng bịnh của đức Boda Lama Quốc Vương, kế đó là cửa thành, vào cửa thành thì trước hết đi ngang qua Quốc-tự của Quốc Vương Lama, cất trên đảnh núi, xem ra không biết mấy nóc, khảm vàng rực rỡ năm, sáu từng lầu. Lúc còn đi đường xa xa lối ba, bốn cây số đã thấy phía hậu Đền chùa rồi. Kêu là Đền vì phần riêng của Quốc Vương, song Quốc Vương là một vị Đại-đức Lama nên gọi Chùa. Một mình làm vua sãi mà cũng vua toàn quốc cai trị quan dân. Lần lượt nẻo quẹo đường quanh, người ngựa đã tới chỗ ngụ, có người chực sẵn rước vào một căn phòng sẵn có đơn tợ. Ấy là nhà trong vòng thành Dinh-quan Tứ-trụ Thừa-tướng nước Tây-tạng. Samdhen đã có quen trước và cũng có thơ từ trước. Căn nhà ở gần bên tên Đầu bếp của Thừa-tướng. Người đầu bếp cũng vui vẻ, tiếp rước chỉ phòng sắp đặt hành lý, an đơn rồi, thì vợ chồng đầu bếp hộ củi phân bò, cà ràng, nước cho tổng khậu Isess nấu trà giải lao. Tối lại họ ăn chiều, rồi lo nghỉ ngơi. Huynh Samdhen nói : đây là nhà cửa trong vòng thành Quan Thừa-tướng. Dinh Ngài ở gần đây phía tả phòng nầy, mai huynh đệ mình sẽ ra mắt ngài.
    [Hai hình dán tại đây đã hư.]



    Điện Potala

    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •