DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 3/4 ĐầuĐầu 1234 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 21 tới 30 của 32
  1. #21
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts


    HẦU BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM



    Sống một đời lương thiện
    Thác theo hầu Quán Âm
    Mẹ hiền thương con trẻ
    Thường đêm ngày chở che.


    Mẹ tôi đã qua đời cách đây gần năm mươi năm về trước, vì một cơn bệnh ngặt nghèo. Năm qua đời, mẹ tôi mới ba mươi hai tuổi, tôi mới lên sáu bảy tuổi đầu. Chúng tôi có bốn anh em. Anh cả và hai em gái. Sau khi mẹ qua đời, chúng tôi được Dì Út săn sóc. Dì Út bây giờ còn sống và rất khoẻ, dù tuổi Dì đã hơn tám mươi. Chúng tôi xem Dì Út như mẹ yêu, nên mỗi mùa Vu Lan đến, tôi và mấy anh em tôi đều cài bông hồng màu đỏ lên áo.

    Ðêm qua, chủ nhật ngày 27 tháng 7 năm 1997 tôi mơ thấy mẹ đến thăm tôi. Gặp lại mẹ, tôi mừng lắm. Mẹ tôi cũng mừng và cả hai đều xúc động đến chảy cả nước mắt. Mẹ tôi còn trẻ và đẹp lắm. Vóc dáng trông rất mảnh mai, dung nghi đỉnh đạc. Mẹ tôi khoẻ, nhan sắc hồng hào, tướng mạo đoan trang, thanh nhã như một bà tiên.

    Ðêm qua nằm mơ thấy mẹ về
    Mẹ về như cánh hạc sơn khê
    Thiên y lộng ngọc bay trong gió
    Mỉm cười nụ hoa tiên mẹ vỗ về.
    Tôi hỏi lâu nay mẹ ở đâu?
    Quán Âm Bồ Tát mẹ theo hầu
    Cõi phàm qua lại quê Cực Lạc
    Ði đứng tùy duyên với phép mầu.

    Từ ngày mẹ tôi qua đời cho đến nay, lần đầu tiên tôi nằm mơ thấy người. Ðúng là giấc mơ, nhưng giấc mơ thật kỳ lạ. Ðêm ấy ba lần thức giấc, ba lần tôi thấy mẹ tôi khi vừa nhắm mắt trở lại. Hình ảnh mẹ tôi hiện ra như ban ngày và vẫn tiếp dẫn cùng câu chuyện. Tôi nhớ rất rõ từng lời nói, từng cử chỉ, từng câu nhắc nhở, khuyến khích, hỏi han của mẹ.

    - Mẹ từ đâu tới?

    - Ðủ duyên thì tới, chẳng chỗ tới, chỗ về.

    - Mẹ lâu nay làm gì?

    - Mẹ theo hầu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.

    Thấy tôi phân vân, và có vẻ nghi ngờ, mẹ tôi nhìn tôi mỉm cười chậm rãi nói:

    Thật ra các cõi giới khác nhau đều do tâm sở duyên và sở hiện, chứ chẳng phải đâu xa. Tâm vui thì cảnh giới vui, tâm buồn thì cảnh giới buồn. Tâm tương hợp và tạo nên mọi cảnh giới, mọi hiện tượng trong trời đất.

    “ Từ khi mẹ tắt hơi thở, ai cũng nghĩ là mẹ đã mất. Kỳ thực, mẹ vẫn sống và còn có duyên lành theo hầu Ðức Quán Thế Âm đi lại khắp nơi để độ người, giúp kẻ lầm than, lâm hoạn nạn. Con là người có nhiều tai kiếp, nhưng lúc nào Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát và mẹ cũng luôn luôn có mặt bên cạnh con để hộ trì cho con, giúp sức cho con lập nên chí nguyện lớn, làm lợi ích cho nhiều người.”

    “Thưa mẹ, mẹ nói là Bồ Tát Quán Thế Âm và mẹ luôn luôn có mặt bên cạnh để hộ trì cho con lập nên chí nguyện.”

    “Quả như vậy, vì con là hài nhi của Ðức Quan Thế Âm gởi cho mẹ săn sóc; do đó, Ðức Quan Thế Âm và mẹ vẫn có liên hệ với con trên suốt hành trình tu tập, phụng sự của con.”

    “Thưa mẹ, mẹ có thể chứng minh và nói rõ hơn điều này cho con nghe được không? Con xin thất lễ với mẹ là nếu con có Ðức Quán Âm, có mẹ nâng đỡ, thì con không bao giờ gặp đủ mọi gian nguy, bệnh tật, tai ách, chướng nạn trong cuộc đời đi tu, hành đạo của con?

    “Con nên trầm tư, hồi tưởng lại vài sự việc nguy biến xẩy ra trong đời con, mà con vẫn được bình yên vô sự. Hơn nữa, tu tập mà không gặp khó khăn, chướng nạn thì do đâu mà lập chí? Mẹ muốn thuật lại một vài việc cho con nhớ:

    1- Năm con trốn nhà đi tu, nửa đêm hôm ấy trời mưa to và bão lụt, nước ngập lối đi. Khi con vừa leo lên chiếc cầu nhỏ để qua sông thì chiếc cầu tre ấy bị nước cuốn trôi, con chìm trong biển nước mênh mông với thân hình chú bé mười bốn tuổi. Ai đã đưa con lên cồn cát, dẫn tới đường cái quan và cho xe đón vào chùa Báo Quốc, Huế mà không tốn tiền lệ phí?

    2- Con vừa đến chùa Báo Quốc là có sư tổ khai sơn chùa Giác Hải, tự Viên Giác, hiệu Chiếu Nhiên đứng đợi con tại cửa Tam Quan chùa. Tối đó, người làm lễ xuống tóc cho con và khuya hôm ấy, hai thầy trò đón tàu lửa về Nha Trang. Ai đã xếp đặt việc ấy cho con?

    3- Chiều ngày 18 tháng 8 năm 1959, con bị té từ trên cây dừa lửa cao vút phía bên trái cổng chùa Giác Hải, thôn Xuân Tự, Nha Trang, Khánh Hòa. Dưới gốc dừa chất từng đống đá tổ ong để xây trường học, thế mà khi con té xuống đầu, mình và toàn thân của con không bị một chút thương tích nào, con tưởng con là hình đồng da sắt hay sao?

    4- Thời gian con học nội trú bốn năm tại chùa Linh Quang, Huế. Ðó là ngày 20 tháng 05 năm 1968, con bị đau thương hàn nhập lý đưa vào bệnh viện, các bác sĩ đều bó tay và đã đưa con qua nhà xác. Sau đó vài phút, hóa thân thứ bốn mươi sáu của Ðức Quan Thế Âm và mẹ đã đến mang con trở lại phòng điều dưỡng, khiến cho quý thầy, chư vị Tăng Ni và các bác sĩ, y tá tại bệnh viện Huế đều hết sức kinh ngạc. Con còn nhớ chuyện ấy không?”



    Nghe đến đây, tôi không còn ngạc nhiên và nghi ngờ gì về lời nói và việc làm của mẹ tôi nữa. Vì những điều mẹ tôi nhắc lại cho tôi nghe, đều hoàn toàn đúng như sự thật. không phải khi đang đối diện với mẹ tôi trong mộng, mà ngay trong khi thức giấc, tôi kiểm chứng lại những lời mẹ tôi kể không sai điểm nào, dù các việc xảy ra trong quá khứ tôi hầu như quên hết từ lâu.

    Nằm mơ thấy mẹ về thăm
    Tỉnh rồi như huyễn tháng năm miệt mài
    Ngủ thức quả giấc mộng dài
    Ðâu là chân cảnh là đài gương trong?
    Bâng khuâng ấp ủ trong lòng
    Trình ra thay giọt lệ lòng trầm tư
    Nhân duyên có tự bao chừ.
    Chân thân như thể thái hư sạch làu
    Bây giờ cho đến ngàn sau
    Tình thương của mẹ nhiệm mầu vô song
    Năm mươi cách bóng mẹ hiền
    Ðược duyên gặp mẹ thỏa lòng con thơ.


    (10) NAM MÔ TẤT CÁT LẬT ÐỎA Y MÔNG A RỊ DA – (Namaskrittva naman arya) -

    Tướng Long Thọ Bồ Tát
    Quán Âm thị hiện thân
    Hàng phục như tà phái
    Hiển lý tánh chơn không.


  2. The Following User Says Thank You to socnho For This Useful Post:

    phapchieumt (03-28-2016)

  3. #22
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts


    CẦU SINH CON GÁI TOẠI Ý


    Quán Âm chuyên lễ niệm

    Cầu con gái thỏa lòng

    Ðược môn đăng rể quý

    Cả nhà đều mừng vui.

    Ông bà ngoại chúng tôi sinh liên tục ba người cậu, cả đại gia đình và dòng họ ai cũng đều lấy làm vui. Riêng ông ngoại có lúc ngồi một mình uống trà đăm chiêu, nghĩ ngợi và buồn rầu. Bà ngoại thấy vậy, gạn hỏi căn do nhiều lần, ông ngoại không dấu diếm được liền nói với bà ngoại rằng:

    Tôi một mình tự ý hứa với Ngài chánh tổng trong làng là hễ trong nhà có sinh con gái thì sẽ kết nghĩa làm sui gia với bên họ Nguyễn. Thế nhưng đã hơn năm trôi qua mà thời gian hứa của tôi chưa thành sự thật. Bà đừng hiểu lầm là tôi trách bà nghe, chỉ là nhà ta thiếu phước nên chưa đủ duyên cùng làm người nhà với Ngài chánh tổng đó thôi.

    Nghe ông ngoại nói xong, bà ngoại thấy thương chồng, sốt ruột và lại cũng đâm ra lo lắng. Bà ngoại dầu chưa bao giờ biết việc ông ngoại có hứa về vị chánh tổng nhà họ Nguyễn về việc ông ngoại âm thầm ước muốn trong nhà có một cô con gái cho nội ngoại đề huề, ấm áp gia phong. Ðồng tình, thuận ý như nhau, ông bà ngoại tôi đều nghĩ tới việc lên chùa cầu tự, xin Phật phù hộ được sinh con gái.

    Hôm ấy nhằm tiết trung thu rằm tháng bảy, ông bà ngoại tôi về thăm chùa Sắc Tứ, tổ đình Quãng Trị cúng Phật và bày tỏ ý nguyện. Trong dịp ấy ông bà ngoại tôi được duyên may gặp tổ Bích Phong từ Huế ra giảng pháp, Ngài dạy ông bà ngoại tôi phát tâm mua ngói lợp lại ngôi Phật điện bị hư dột vì chiến tranh. Ông bà ngoại tôi lại được quy y với tổ và biết lễ niệm, phụng thờ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát từ đó. Tổ Bích Phong căn dặn ông bà ngoại tôi là nên phát nguyện ăn chay, giữ giới thanh tịnh, trong sạch thân tâm thì mọi ý mong cầu đều được toại nguyện. Nhân đó tổ ban cho ông bà ngoại tôi một bài kệ văn bằng chữ Nôm như sau:

    “Quán Âm Bồ Tát từ bi

    Cứu người đau khổ lâm nguy ách nàn

    Ăn chay giữ giới làm lành

    Cầu chi được nấy toại nguyền hôm mai

    Muốn cầu con gái con trai

    Thành tâm lễ niệm gái trai phỉ nguyền.

    Quán Âm niệm niệm tinh chuyên

    Tham sân chừa bỏ lặng yên sóng cồn

    Ngồi thiền đèn tuệ rạng chong

    Sống vì tất cả mát dòng chân minh

    Một đời chớ có sát sinh

    Nguyện lòng chớ có trộm cắp dâm tà

    Dối gian lường gạt tránh xa

    Rượu say cờ bạc quyết từ bỏ đi.

    Quán Âm cứu khổ từ bi

    Thiết tha cầu khẩn thỏa lòng ước mơ.”

    Bằng vào lời dạy của Tổ, ông bà ngoại tôi hết lòng phát nguyện tu tập, giữ gìn giới hạnh tinh nghiêm; thỉnh tôn tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát để thờ phượng, lễ bái, xưng niệm, cầu nguyện rất chuyên cần và tha thiết. Một năm sau điều nguyện ước mong của ông bà ngoại tôi được thỏa mãn. Bà ngoại thọ thai, mẹ tôi ra đời, rồi kế đến là Dì Út ra đời. Ông cố ngoại đặt tên cho mẹ tôi là Trần Thị Vui, đặt tên cho Dì Út là Trần Thị Mừng, là niềm vui lớn tràn ngập cả nhà mong ước nguyện cầu sanh con gái được sanh con gái của ông bà ngoại tôi. Chính nhờ sự linh ứng cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm có hiệu nghiệm này mà trong đại gia đình ông ngoại và trong đại gia đình ông nội tôi, cùng bà con giòng họ xa gần, dân chúng thôn trên xóm dưới, ai ai cũng một lòng tín cẩn, phụng thờ chăm lòng lễ niệm và sống theo hạnh lành của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.

    Chuyện này được viết theo lời kể của ông Trần Hải và Trần Phước, hai người con của ông bà ngoại, cậu ruột của tôi hiện còn sống tại Long Hưng, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.




    (11) BÀ LÔ CÁT ÐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ÐÀ BÀ – (Avalokitashavara lantabha) -

    Quán Âm thị hiện tướng

    Viên mãn thân trang nghiêm

    Tỳ Lô Giá Na Phật

    Ðộ vô lượng chúng sanh.


  4. #23
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts


    NGỒI THIỀN TRÊN SỪNG TRÂU



    Cậu bé mặc áo đỏ

    Trâu ô húc vướng sừng

    Mang chạy quanh miếu cổ

    Lão bà hiện, trâu quỳ.

    Em bé trai bận áo đỏ chừng bốn tuổi, chạy tung tăng bắt bướm từ trong vườn ngôi miếu cổ của làng. Một con trâu mộng, sừng nhọn, to tướng đang ăn cỏ nơi vỉa hè ngôi miếu cổ, bỗng hai con mắt nổi lửa đỏ ngầu, sung sục chạy đến húc cậu bé cắm lên hai sừng, rồi chạy đến khắp đường làng, khiến ai nhìn thấy cũng đều kinh hoàng và hoảng sợ. Riêng cậu bé lắc lư trên sừng trâu như đang “tọa thiền” khoái chí. Con trâu mang cậu bé chạy cùng đường, rồi lạ thay nó chạy trở về lại ngôi miếu cổ. Vừa chạy vào sân miếu, con trâu thấy một bà lão tóc bạc, chống gậy đứng trước ngôi miếu, con trâu liền quỳ hai chân trước một cách cung kính và để bà lão ẵm em bé xuống đất một cách bình yên, rồi thì bà lão biến mất. Cậu bé ấy chính là tôi, chứ không ai khác. Vết sẹo năm xưa bị trâu húc sát bụng dưới của tôi, bây giờ vẫn còn là một “di tích lịch sử” chưa phai mờ.

    Khi tôi lớn lên được người nhà thuật lại rằng, mẹ tôi hay tin em bé bận áo đỏ bị trâu húc liền run rẩy bà báo tin cho bà nội hay. Bà nội nghe xong hết sức bình tỉnh, bà thong thả thắp hương đèn trước bàn Phật, rồi gọi hết cả nhà cùng người ăn kẻ ở xúm lại đông gần năm mươi người cả thảy, đồng thanh niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chỉ trong vòng mười phút sau là tôi được cứu và mang về nhà. Mẹ tôi kể là, vì câu chuyện tôi bị trâu húc mà từ đó không mấy người ưa màu áo quần đỏ, cho chí khăn màu đỏ, ông bà nội tôi đều cấm con cháu dung tới.

    Bà lão hiện thân đó là ai?

    Tại sao trâu lại chống chân quỳ

    Bé thơ ngộ nạn mà không chết

    Có phải tổ tiên có đức dày?

    Những nghi vấn trên đây, tùy nơi đức tin, kinh nghiệm, sự thực tập của mỗi người để trả lời. Riêng ông bà nội và mọi người trong gia đình tôi cho rằng, bà lão hiện thân trong miếu để ra uy cho con trâu mang tôi trở lại miếu và quỳ xuống để tôi không ngộ nạn, là hóa thân của Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát.



    (12) NAM MÔ NA RA CẨN TRÌ – (Nammo Nilakantha)

    Quán Âm thị hiện tướng

    Tự tánh Tỳ Lô Hải

    Thanh tịnh pháp thân Phật

    Cứu khổ hằng ban vui.


  5. The Following User Says Thank You to socnho For This Useful Post:

    phapchieumt (03-28-2016)

  6. #24
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts



    BÀ CỤ BÁN CHÈ THOÁT NẠN.

    Cụ Sen trên sáu mươi lăm tuổi, cư ngụ tại Ðà Nẵng tỉnh Quảng Nam, ngày ngày trời mưa cũng như trời nắng, phải đi bán cho xong hai gánh chè rong, mới đủ ít tiền lời mua gạo nuôi một đàn cháu.

    Cụ có một người con trai lấy vợ sinh được bốn cháu nội, ba trai một gái. Cháu đầu mười một tuổi, ba cháu sau cách nhau một đứa hai tuổi. Bốn cháu nội của cụ chưa khôn lớn nhưng rủi thay, cha mẹ chúng đã qua đời cùng một lúc vì mìn nổ khi cả hai bò qua hàng rào kẽm gai của một đồn lính cũ, lượm các lon bia và lon nước ngọt để đổi gạo nuôi các con trong cảnh nghèo khó. Tám đứa cháu ngoại khác, con của người con gái lớn của cụ cũng rất thương tâm. Ðứa đầu là con trai mười sáu tuổi, bị cụt hai chân vì chiến tranh. Em thường ở nhà bò lê trên nền đất của cái bếp nhỏ xíu, giúp bà ngoại nấu đủ các loại chè. Bảy bé gái, từ mười bốn tuổi trở xuống, chỉ cách nhau một đứa vài ba tuổi. May mắn là ba cô bé sau ở trong viện cô nhi Diệu Ðịnh, lâu lâu mới được phép kéo nhau về nhà thăm bà ngoại, bốn chị lớn và người anh tàn tật. Cha chúng đi lính bị chết, mẹ mắc phải bệnh đau tim và qua đời hồi đứa con gái mới sinh được ba tháng. Nhờ lúc còn sống, mẹ của các cháu hay đến cô nhi viện Diệu Ðịnh làm công quả, tắm giặt, lo cơm nước cho các em bé mồ côi, nên sau khi bà qua đời ba đứa nhỏ được ban giám đốc viện mồ côi ưu tiên giúp đỡ.

    Tôi được biết chút ít về gia cảnh buồn tủi, khốn khổ của cụ Sen, vì tôi quen biết cụ bằng những chén chè nếp canh khuya khi cụ đi ngang qua chùa Phổ Ðà trên đường đi bán chè về nhà của cụ. Hồi đó, năm 1964 tôi đang chương trình đệ tứ trường trung học Bồ Ðề Ðà Nẵng. Ðêm nào tôi cũng thức để học bài và làm bài đến mười hai giờ khuya. Làm bài xong, ngồi canh chừng ở bờ tường có lổ hổng chờ cụ Sen đi bán chè về. Nếu may lắm thì những chén chè nếp nấu với đậu ngự còn sót lại, cụ chỉ bán cho tôi và các chú tiểu giá tiền phân nửa. Khi mua được những chén chè của cụ, chúng tôi phải ngồi ăn tại bờ tường để trả chén lại cho cụ. Có lần nghe tôi nói chuyện đi tu cũng nhớ cha nhớ mẹ, nhớ ông bà nội, ông bà ngoại lắm. Cụ nghe xong rồi chảy nước mắt. Từ đó cụ cho chúng tôi ăn chè mà không hề tính toán; hễ có chút ít tiền thì trả, bằng không thì thôi, cụ cho ăn miễn phí. Cụ nói cụ xem chúng tôi như cháu của cụ. Ăn chè của cụ mà được miễn phí nhiều lần quá, nên tôi rất ngại. Tôi liền nghĩ ra cách đền đáp cụ là dạy cho cụ Sen bán chuyên tâm lễ niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Một hôm tôi nói với cụ.

    “Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát linh lắm cụ ơi! cụ có rãnh nên ghé vào chùa lễ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Bằng như quá bận rộn, thì cụ cứ chuyên tâm mà niệm “ Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” lâm râm trong miệng thường xuyên cũng được. Cụ rất tin và nghe lời. Nhưng vì cụ không biết chữ, nên tôi phải dạy cho cụ đến cả bảy lần cụ mới nhớ nổi. Cũng từ đó, tôi được nếm đủ các loại chè của cụ hoàn toàn miễn phí. Lần đầu tiên tôi được ăn chè hạt sen, một loại chè đắt tiền nhất trong các loại chè. Gọi là cụ Sen vì tôi được nhiều lần ăn chè hạt sen thượng hạng của cụ, nên tôi tự động đặt tên ấy cho cụ để nhớ lòng tốt của cụ.

    Một ngày nọ, cụ Sen gánh chè đi bán, và vì trời quá nóng nên cụ ngồi sát bên bờ tường táp lô ở hông chùa Phổ Ðà để nghỉ. Vừa ngồi chốc lát thì cụ thấy có một người bận áo trắng, mặt mày rất xinh vừa đi vừa khóc như có chuyện buồn. Thấy vậy cụ động lòng trắc ẩn liền chạy theo để hỏi lý do và có thể an ủi người ấy. Nhưng khi cụ vừa đến thì nàng biến mất như một cái bóng liền ngay lúc đó, bờ tường cũ mà cụ Sen ngồi nghỉ mát bỗng ngã xuống rất mạnh, choán hết cả lối đi và làm tan nát gánh chè của cụ. Tôi và các chú trong chùa nghe mọi người hô hoán là bờ tường chùa bị đổ, chúng tôi chạy ra xem thì thấy cụ Sen mếu máo khóc vì tiếc rẻ gánh chè bị mất và soong nồi chén bát đều bị tiêu tán. Tôi đã an ủi cụ là “của mất mà người còn”. Và tôi “báo cáo” cho cụ Sen rõ, đó là nhờ cụ tin tưởng Ðứa Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhờ cụ thường niệm danh hiệu Ngài mỗi ngày nên có sự linh nghiệm. Thưa cụ, người thiếu nữ bận áo trắng mà cụ thầy kia chính là hóa thân thị hiện cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Nếu không có Bồ Tát giả làm người con gái đến cứu cụ thì cụ đã theo ông bà rồi.

    Không chỉ an ủi cụ Sen thôi, thực tế hơn tôi đã đi xin tiền các Dì Vãi trong chùa và các Phật tử quen thân để tạo “cơ nghiệp” gánh chè bán hàng rong cho cụ Sen. Tình nghĩa giữa gia đình cụ Sen và tôi đã khắn khít nhau từ đó. Tôi có làm bài thơ tặng cụ Sen:

    Chú tiểu thức khuya để ăn chè

    Ăn chè miễn phí thẹn ấp e

    Bèn khuyên bà cụ Quán Âm niệm

    Linh ứng cho nên thành khỏi đè.




    (13) HÊ RỊ MA HA BÀN ÐA SA MẾ ( Srimahapatashami)

    Quán Âm hiện thân tướng

    Vị vua Dương Ðầu Thần

    Hộ trì các hành giả

    Ðạo quả chóng viên thành.




  7. The Following User Says Thank You to socnho For This Useful Post:

    phapchieumt (03-30-2016)

  8. #25
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts


    BÀN TAY MẦU NHIỆM CỦA ÐỨC QUÁN THẾ ÂM


    Tôi sống nhờ bàn tay mầu nhiệm

    Ðức Quán Âm cứu khổ mẹ hiền

    Một tai nạn lưu thông khó thoát

    Một linh ngời linh diệu bình yên.


    Hôm đó tôi đi lên bộ nội vụ với thầy Pháp Bạc để xin giấy tờ đi Mỹ. Trên đường đi, di chuyển bằng chiếc xe Vespa cũ của thầy Pháp Bạc và do thầy cầm lái. Không may, khi chiếc xe chúng tôi lướt nhanh trên đường từ Phú Lâm lên Sài Gòn thì bị một chiếc xe M.C của quân đội, do một anh lính hạ sĩ quan Việt Nam say rượu cầm lái, húc mạnh và cán lên chiếc xe Vespa của hai chúng tôi. Lúc vừa bị xe lớn cán lên xe và lên người hai chúng tôi, tôi thoáng thấy một bàn tay dài, lớn, mềm mại nhanh nhẹn ẵm lấy tôi đặt vào một gốc cây to sát lề đường. Nhiều người đi đường thấy hai ông thầy tu bị xe “chạy ẩu” cán nát bèn xúm lại và kéo ông tài xế xe M.C xuống để hạch tội, hành hung. Một số người khác dùng sức kéo chiếc xe Vespa nghiền nát như bánh tráng đang kẹp dưới chiếc xe lớn. Nhưng lạ thay, họ không thấy hai chúng tôi đâu cả. Ngồi yên trong gốc cây, tôi quán sát cảnh tượng náo nhiệt một hồi, rồi nhìn thấy thầy Pháp Bạc đang lom khom bò lên từ ống cống của rãnh nước. Kiểm soát kỷ, cả hai chúng tôi thấy không hề bị thương tích gì cả bèn chạy tới đám đông “cứu khổ” cho tài xế M.C. đang bị bà con tấn công chuộc tội. Tôi thong thả bước tới dang hai tay cản những người đang hành hung bác tài xế và nói to: “chúng tôi còn đây nè, cả hai thầy tu chúng tôi không bị thương tích gì cả trong tai nạn này, xin cảm ơn bà con cô bác đã quan tâm và xin tất cả vui lòng, tuyệt đối không nên làm khó dễ bác tài xế.” Nghe lời tuyên bố, cả đám đông gần mấy chục người yên lặng và vô cùng kinh ngạc nhìn hai chúng tôi với nét mặt mừng rỡ, cung kính. Riêng bác tài xế thì khóc sướt mướt và quỳ xuống đường chấp hai tay lạy chúng tôi như lạy tế trời.

    Nhân đám đông và cảnh sát công lộ có mặt làm hồ sơ tai nạn lưu thông, tôi đã lợi dụng cơ hội này diễn thuyết một hồi về sự mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi nói vắn tắt mấy lời như sau:

    “Kính thưa quý vị, hai chúng tôi bị tai nạn khủng khiếp, có thể chết trong đường tơ kẻ tóc. Nhưng quý vị xem thân thể hai anh em chúng tôi dây, không hề bị thương tích gì cả. Áo quần chúng tôi rất sạch sẽ, không bị lấm đất, không dính một giọt máu vì tai nạn. Quý vị thấy có lạ không? Ðây là pháp Phật nhiệm mầu. Hai anh em chúng tôi nhờ sớm biết đi tu, không gây tạo điều xấu ác, nên có thiện quả và có Phật Thánh, Hộ pháp, Long thiên, Chư thiên che chở. Vừa rồi hai anh em chúng tôi được thoát nạn, chính là nhờ bàn tay cứu vớt của Ðức Quán thế Âm Bồ Tát. Ngài là Phật, là vị Thánh linh hiển hay cứu giúp mọi người khi ai thường tin cẩn và niệm tên của ngài…” Nói tới đây, bổng tôi niệm lớn Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát và kỳ diệu thay, tất cả mọi người kể cả những cảnh sát viên cũng niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát theo sự hướng dẫn của tôi. Cũng nhờ vậy mà trong đám đông ấy có rất nhiều người trở thành Phật tử thân tín của tôi trước khi tôi đi học ở Mỹ.

    Sau tai nạn ấy, tôi hỏi cách tu tập hàng ngày của thầy Pháp Bạc. Thầy nói, thầy đã tin Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát hồi còn chưa xuất gia và đêm nào thầy cũng trì tụng kinh Ðại Bi ba biến, niệm tên Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát 108 lần mới đi ngủ. Riêng tôi thì hay tụng kinh Phổ Môn và kinh Pháp Hoa suốt trong cuộc đời xuất gia. Tôi tin Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát như năng lực mầu nhiệm sẵn có trong tự tâm và năng lực ấy giao cảm được với năng lục tối cao của chư Phật, chư Bồ Tát. Và, Bồ Tát Quán Thế Âm, cứu khổ chúng sinh vô cùng tận trong đời vị lai. Ngài, vị thánh linh hiển.




    (14) TÁT BÀ A THA ÐẬU DU BẰNG (Sarvadvatashubham)

    Quán Âm hiện thân tướng

    Bồ Tát Cam Lộ Vương

    Tay cầm bình tịnh thủy

    Cành dương giải oán thù
    .


  9. #26
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts


    CHỮA LÀNH BỆNH BÀI BẠC


    Bệnh bài bạc khảo đảo

    Chuyên trì chú Ðại Bi

    Niệm Quán Âm danh hiệu

    Thoát khỏi khổ tai ương.

    Dì Ẩn một nữ tu tại gia và phát nguyện lui tới ngôi chùa nhỏ, không có thầy trú trì để lau bàn Phật, quét tước và làm công quả. Quê của Dì ở Huế, nhưng vào trú ngụ với người cháu họ tại Ðà Nẵng, thuộc tỉnh Quảng Nam.

    Tôi quen Dì vì có thời gian tôi xin thầy giáo thọ rời Phật học viện Phổ Ðà về khuôn hội Vĩnh An tạm trú để học bài thi và được Dì Ẩn lui tới nấu cơm, làm bánh nậm, bánh bèo cho ăn. Ăn hoài nên “mắc nợ” của Dì quá nhiều, tôi nghĩ tới chuyện đền đáp nên tìm cách hướng dẫn cho Dì Ẩn học thuộc mười hai lời nguyện của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi khuyên dì nên niệm danh hiệu Quán Thế Âm, cùng lễ lạy Bồ Tát mỗi sáng sau khi thức dậy và mỗi tối trước khi đi ngủ. Dì rất vui, tha thiết tin theo và thực tập rất tin cần. Khoảng hai tháng sau, một hôm Dì tới chùa gặp tôi với nét mặt buồn rầu, mỏi mệt, chán nản, đau khổ. Hỏi ra tôi mới biết về chuyện “xấu” đã xảy đến cho Dì.

    Dì Ẩn nói cách đây bốn tuần lễ, có một bà bạn cũ ghiền cờ bạc tới chơi nhà rủ rì rủ rê Dì nhập sòng bài “cầu tài”. Không dè tiền chẳng tới mà nhà cửa sa sút. Bao nhiêu vốn liếng làm việc cực khổ dành dụm bấy lâu bây giờ Dì đã đem tế sống cho “cô hồn ác đảng” lại còn phải mắc nợ mấy bà bạn “giàu lòng” thiện cảm nữa. Nói xong rồi Dì khóc nức nở và cho là Phật Bà Quán Âm không thương tưởng, không cứu khổ, không linh thiêng phò trì cho vụ nhập sòng đen đỏ của Dì.

    Tôi nghe Dì kể xong mà phát giận. Giận vì Dì không tới chùa làm bánh cho ăn. Giận vì Dì để lòng tham xui khiến sa vào thói đỏ đen bài bạc rồi lại trách Phật Thánh, Bồ tát Quán Âm không cứu độ, phù hộ cho việc đánh bạc của Dì. Trong khi tôi bực bội quá đỗi, Dì lại năn nỉ tôi cứu Dì bằng cách cho Dì mượn mấy chục ngàn để trả nợ, nếu không tiền lời của chủ nợ sẽ làm lên ngập đầu. Tôi chịu hết nổi sự khóc lóc, kêu nài vô lý của Dì. Tôi bèn làm dữ với Dì và thay vì nói tới tiền bạc, tôi khuyên Dì Ần nên tiếp tục niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, đọc kinh Ðại Bi mỗi ngày hai mươi mốt biến và phát nguyện tụng kinh Pháp Hoa với tôi mỗi buổi tối tại chùa.

    Dì Ần ở chùa làm công quả và tu tập được một tuần sau thì có hai bà to mập, phì nộn tới chùa tìm Dì Ẩn đòi tiền lời và tiền vốn cho Dì vay để đánh bạc. Tôi đã tiếp họ thay vì để Dì Ẩn chường mặt với hai bà phụ tá chủ sòng bạc kín tại thành phố Ðà Nẵng. Trong khi tiếp xúc với hai bà, tôi đã khéo lời khuyên hai bà ấy về “tội dụ dỗ” người hiền đánh bạc. Nhân đó tôi đọc một bài thơ cho hai bà nghe và Dì Ẩn ngồi trốn trong liêu cũng nghe nữa. Bà thơ ấy tôi không nhớ rõ là của ai, nhưng khi nó tuôn ra từ miệng của tôi thì có một năng lực kỳ diệu. Bởi vì tôi đọc xong và giải thích thêm về ý nghĩa, chi tiết của bài thơ thì hai bà rơi nước mắt. Sau đó, xin vào điện Phật lạy sám hối. Trước khi hai bà ra về, họ hứa với tôi là sẽ tìm thầy quy y học đạo, không tham gia vào nghề đen đỏ và họ hứa không đòi tiền nợ do Dì Ẩn mượn nữa.

    Bài thơ ấy có nhan đề là "Đồng tiền phi nghĩa":

    Bạc ác chi mi lắm rứa tiền

    Mi làm nhân loại hóa ra điên

    Mi tô mặt nạ đen thành trắng

    Mi khiến nhân tình thẳng hóa xiên.


    Mi đạp luân thường vô một xó

    Mi xô trí tín dẹp đôi bên

    Mi xua thế giới đâm nhau mãi

    Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền.


    Sau khi “cứu” được Dì Ẩn ra khỏi bệnh bài bạc, tôi rất có niềm tin nơi Ðức Quán Thế Âm Bồ tát. Vì tôi không ngờ chuyện khó “tầy trời” của Dì Ẩn và chuyện đòi tiền của hai bà nghề bài bạc mà có thể vượt qua được. Người tin tưởng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát sâu sắc, chân thành hơn tôi nữa, đó là Dì Ẩn. Vì từ khi có biến cố khó khăn cùng cực xảy ra và vượt qua khỏi, thì Dì Ẩn mới phát tâm tin hạnh cứu khổ của Ðức Quán Thế Âm nhiều hơn. Mừng chuyện tiến tu của Dì Ẩn tôi có làm bài thơ trào phúng tặng Dì như sau:

    Dì Ẩn trong phòng trốn nợ kêu

    Tim run muốn rớt nhịp không đều

    Quán Âm thầm niệm thôi lia lịa

    Ðể chú trọc đầu phải chịu trêu.


    Quán Âm cứu khổ pháp linh mầu

    Giúp người ra khỏi chốn sầu đau

    Múa gậy đọc thơ đất chuyển động

    Tình mê sáng dậy chiếu ngàn sau.




    (15) A THỆ DỰNG ( Ashiyum)

    Quán Âm hiện thân tướng

    Phi Ðằng Quỷ Dạ Xoa

    Ðộ những người hung hiểm

    Bỏ ác theo pháp lành.


  10. #27
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts


    MẮT MÙ LẠI SÁNG




    Lúc 53 tuổi, mắt của Dì Mão tự nhiên bị đỏ lói rồi sưng to. Sau đó không bao lâu thì hai mắt của Dì bị mù. Các thầy thuốc đông y, tây y đều tìm đến chữa trị, song không có hiệu quả. Tình trạng này kéo dài rất nhiều năm, khiến Dì rất đau khổ và khó khăn cho đời sống vô cùng. Có một lần Dì mò ra bờ ao hái rau muống, không may bị trượt chân té xuống hồ sâu ngập nước, suýt chết. May có người hàng xóm đi qua nhanh tay cứu Dì qua cơn tai nạn.

    Gặp lúc bệnh khổ ụp tới, cùng đường bí lối, Dì Mão mới quay về Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm danh hiệu của Ngài cầu cứu Ngài cứu khổ, cứu nạn. Cộng thêm sự huy động tinh thần và lời khuyên dạy của Hòa Thượng Phổ Phổ Thiên, Trụ trì chùa Phổ Ðà tại Ðà Nẵng. Dì Mão tăng phần tín nhiệm, tin tưởng vào thần lực của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Từ đó, Dì Mão bắt đầu chuyên niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và lễ bái chuyên cần sớm tối, tha thiết mong cầu được sớm lành mắt, tai qua nạn khỏi. Cứ sau mỗi lần lễ bái, niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm được 108 lần, dì Mão lại đọc lời tác bạch trước tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát:

    Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Dì cứ lặp đi lặp lại 21 lần rồi nói: “con là người mê muội, chữ nghĩa không rành, lý đạo chẳng thông, nghiệp chướng sâu dày, mang nhiều nổi khổ. Nay hai mắt bị mù lòa, tâm thần rối loạn, sống mà cũng như chết. Lòng con không an, khổ lắm. Mong Ðức Phật Bà Quan Âm cứu giúp, chữa trị cho hai con mắt của con sáng lại. Con nguyện sau khi hai mắt của con được sáng, con xin trọn đời vào chùa làm công quả, chuyên làm việc lành, phụng sự Tam Bảo, không hề luống phí thời gian, chuốc thêm nghiệp xấu, phiền não. Xin Ðức Phật mười phương soi sáng, xin Ðức Bồ Tát Quán Âm chứng giám cho lời phát nguyện chân thật của con”.

    Kỳ diệu và linh nghiệm thay, sau gần ba tháng chuyên tâm trì niệm hồng danh, lễ bái và cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, đôi mắt của Dì Mão được sáng lại như xưa. Trước khi lành bệnh có chuyện xảy ra là một buổi sáng Dì Mão đang ngồi lần chuỗi, miệng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát tại góc chuông chùa Vĩnh An, thuộc khuôn hội Phật Giáo tỉnh Quảng Nam Ðà Nẵng thì bỗng có một người “khách lạ” nói giọng người con gái nhỏ nhẹ và tự xưng là học trò của Ðức Quán Thế Âm mang tới biếu người có lòng tin cậy, lễ niệm thuốc Phật Bà. Nói xong tự tay cô gái bỏ thuốc vào miệng cho Dì Mão và bảo là uống thuốc rồi chắc chắn sáng mai mắt sáng. Thì ra đó là giấc mơ của Dì Mão đã xảy ra đêm qua trước khi mắt dì được sáng lại. Dì nói giấc mơ rõ ràng như chuyện xảy ra ban ngày vậy.

    Chuyện Dì Mão lành đôi mắt nhờ lễ niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát đã lan tràn khắp tỉnh và xóm làng. Khiến nhiều người chưa quy y, chưa biết gì về đạo Phật cũng đều phát tâm tín cẩn Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và đi thỉnh tôn tượng của Bồ Tát về thờ phượng, lễ bái.

    Mắt mù khó sáng lại

    Thuốc Ðông tây khó lành

    Niệm Quán Âm lễ nguyện

    Cảm ứng bất tư nghì.

    Dì Mão là một thành viên rất thuần thành và hết sức tích cực trong việc hộ trì Tăng, Ni trẻ tu học thiếu điều kiện vật chất trong số đó có tôi. Từ khi Dì được Bồ Tát Quán Âm cứu khổ và điểm hóa, Dì Mão đã trở thành bà mẹ tình thương của rất nhiều trẻ thơ mồ côi, xấu số. Dì đã trải dài cuộc đời còn lại của mình để phụng sự Phật pháp và tình thương với nụ cười, đôi tay khoẻ trong trái tim giản dị, tươi mát, mộc mạc, hiền lành của Dì. Dì sống gần đến chin mươi mới qua đời. Nhà thơ Nguyễn Duy An đã từng thọ ơn của Dì Mão rất nhiều và có đọc tặng Dì bài thơ Bà Mẹ Tình Thương khi tiễn Dì lần cuối:

    Dì không sinh con đẻ cháu

    Mà con cháu đầy đàn

    Tâm Dì hiền như Phật

    Lòng Dì rộng thái không

    Tình nào bằng tình mẹ

    Tình Dì còn trội hơn

    Một đời trong như ngọc

    Lấy nụ cười hồn nhiên

    Dùng đôi tay mềm nhẹ

    Bên lời nói ngọt ngào

    Với nghi biểu ngời sáng

    Nuôi bé nghèo đơn côi

    Dì tình mẹ cao vút

    Nhớ hạnh Dì bao la

    Lời không thể nói được

    Kính thương Dì không nguôi.

    Xin cầu Dì về bến

    Cõi Cực Lạc Di Ðà

    Sống an hòa tự tại

    Hóa thân về thăm quê.




    (16) TÁT BÀ TÁT ÐA ( NA MA BÀ TÁT ÐA) NA MA BÀ GIÀ

    Quán Âm hiện thân tướng

    Thần Vương Bà Già Bà

    Hàng phục các ma chướng

    Ðộ những kẻ hữu duyên.



  11. #28
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts


    ÐỨC QUÁN ÂM ÐIỂM HÓA



    Bất đắc làm thiện sự

    Chán hầu điện Quán Âm

    Bồ Tát hóa thân nữ

    Dẫn độ tiểu đồng vui.


    Chú tiểu mười bốn tuổi, đến tu chùa Giác Hải, núi Ông Sư. Chùa dựng lên trên mấy chục mẫu đất, cây cảnh xanh tươi, có nhiều thú dữ. Ðỉnh núi Ông Sư có điện Quán Âm thờ Phật Bà, tiếng đồn rất linh hiển. Chùa thiêng, cảnh rộng, việc tụng kinh, quét tước và tạp dịch có muôn thứ, thế mà trong cảnh già thanh lam thanh tịnh, u tịch chỉ có bóng dáng hai thầy trò, sớm tối lễ bái, chuyên tay làm đủ mọi thứ không có giờ giấc nghỉ ngơi. Ðã thế, có lúc sư phụ phải đi xa, ít thì vài ba tuần và nhiều thì vài ba tháng, để lại chú tiểu ở nhà một mình quán xuyến tất cả.

    Nỗi lo lắng, sợ hãi và bối rối nhất của chú tiểu là cứ mỗi buổi chiều mặt trời sắp lặn thì chú tiểu phải leo lên đỉnh núi Ông Sư để thắp hương, lau các bóng đèn hột vịt và châm dầu vào các bình đèn lồng. Ðể trốn sự lo lắng, sợ hãi về bóng tối, cọp, ma, quỷ, thần linh…chú tiểu phải leo lên điện Quán Âm lúc trời đứng bóng. Nhưng chú tiểu vỡ lẽ là không thể châm dầu và thắp đèn lúc này được, vì lên đèn sớm quá dầu lại hết khi trời mới nhá nhem tối. Chú tiểu lại “lỡ” học bài và “lỡ” hứa với sư phụ là không thể làm dối, nói dối. Thế là sự lo lắng, sợ hãi và bối rối của chú tiểu mặc sức bành trướng và bao trùm. Từ đó chú tiểu đâm ra giận dỗi sư phụ, giận dỗi Ðiện Bà và Phật Bà Quán Âm. Dù biết giận dỗi như thế là vô lý song chú tiểu vẫn không biết làm gì khác hơn.

    Một hôm trời còn sáng, chú tiểu ngồi bậc dưới chân Ðức Quán Thế Âm, mắt ngước nhìn diện mạo Phật Bà, khóc tức tưởi. Khóc đã thèm rồi đôi co với tượng Phật Bà

    “Sư phụ đi vắng, con ở nhà một mình sợ gần chết, sợ té nước trong quần mỗi tối lên đây thắp dầu. Phật Bà có linh thiêng thì giúp con làm cho các cây đèn hột vịt này sáng hoài, bóng sạch sẽ hoài và dầu trong bình không hề cạn. Phật Bà mà làm không được thì không thể gọi là Phật Bà linh thiêng được, phải không Phật Bà ?!.”

    Nói xong, chú tiểu như trút được một ít sự bực nhọc, lo lắng, sợ hãi và giận dữ trong lòng. Dù vậy, chú tiểu vẫn không tin tưởng là Phật Bà làm được chuyện nhỏ thắp đèn mà chú cằn cựa thách đố. Vì vậy, mỗi lần lên điện Quán Âm lau bóng đèn, châm dầu là chú lại ngồi khóc, bực tức, giận dỗi, thách đố và cằn cựa với Ðức Quán Âm bằng cách lập đi lập lại sự đòi hòi của mình. Một buổi chiều mưa bão lớn, cây cối ngã đổ khắp vườn chùa, chú tiểu không hề nhìn và không màng nghĩ tới. Trời mới ráo cơn mưa, chú tiểu cấm đầu chạy ù leo lên đỉnh núi vội vàng vào điện Quán Âm để kiểm tra mấy cây đèn hột vịt thắp trong điện thờ Phật Bà. Trực nhìn vào điện thờ, chú tiểu kinh hãi vô cùng và run lên như cầy sấy, vì ba mươi hai cây đèn hột vịt bóng còn trong sáng, tim đèn còn cháy và các bình còn đầy dầu nguyên vẹn không hao hụt. Bão to, gió lớn và cơn mưa ầm ầm như thác chảy, thế mà các cây đèn hột vịt nhỏ nhoi kia và mấy dãy đèn có lồng kiến bốn góc kia không một cây nào đổ bể. Chú tiểu từ đó, không dám “cằn cựa” và “hằn học” với Ðức Quán Âm nữa. Một hôm khác, chú tiểu vừa lên điện Quán Âm, xa xa có thấy ba bốn cô thiếu nữ mặc áo trắng rất xinh đẹp từ điện Phật Bà đi ra và bay nhẹ trong gió. Chú tiểu vào điện Bà quán sát, các cây đèn vẫn sáng, bóng đèn như vừa mới được lau và dầu trong các bình còn đầy nguyên vẹn.

    Chú tiểu đó chính là tôi đây. Ai đã lau bóng đèn? Ai đã châm dầu và các bình dầu? Ai là các thiếu nữ mặc áo trắng bay trong gió và biến dạng vào hư không? Những câu hỏi ấy không ngừng khơi dậy trong đầu một chú bé như tôi. Tôi có đem chuyện này kể lại cho sư phụ tôi nghe. Người nói: “Ðó là Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân để điểm hóa con. Từ nay con phải hết sức kỉnh lễ, niệm danh hiệu và phụng sự Ngài, chớ đem tâm dể duôi, thất kính đối với Ðức Quán Thế Âm nữa.”

    Hồi đó, sư phụ nói vậy tôi nghe vậy, lòng tin cậy vào sự gia ân, thị hiện cứu độ của Ðức Quán Thế Âm đối với tôi vẫn còn nghi ngờ, xa lạ. Nhưng bây giờ thì đã khác hẳn, không những tôi tin năng lực cứu độ mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm thôi mà tôi còn tập sống theo hạnh từ bi của Ngài một cách tích cực và bền bỉ.




    (17) MA PHẠT ÐẠT ÐẬU – (Ma bhate tu) –

    Quán Âm hiện thân tướng

    Quân Tra Lợi Thắng Vương

    Mặt có ba con mắt

    Soi suốt tâm con người.


  12. #29
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts


    CẢN NGĂN SỰ GIẾT CHÓC




    Ðiện Quán Âm linh ứng

    Trên đỉnh núi ông sư

    Cản ngăn sự giết hại

    Lính đôi bên an toàn.



    Năm 1960, đó là đêm trăng sáng, Rằm tháng Tám âm lịch. Một đại đội nghĩa quân hợp tác với lính phòng vệ quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa do trung úy Nam, người thiên chúa giáo âm thầm kéo quân lên điện Quán Âm, đỉnh núi Ông Sư, chùa Giác Hải, thôn Xuân Tự để phục kích lính Việt cộng nằm vùng để cổ động dân làng hội họp, tuyên truyền, chống đối chính sách quốc gia dưới trào ông Ngô Ðình Diệm, Rủi thay hôm đó lính quốc gia đã tới trễ một bước, lính du kích Việt Cộng đã đến trước và dàn binh bố trận xung quanh Ðiện Quán Âm để tàn sát lính quốc gia. Họ đã nổ sung và ném lựu đạn vào đội binh quốc gia do trung úy Nam chỉ huy. Song kỳ lạ thay, Việt Cộng khai hỏa trước, nhưng các nòng sung đều bị điếc. Các quả lựu đạn như trái khế được ném tung ra để ném đội binh quốc gia, nhưng chúng lăn lóc như đá núi, không có trái nào nổ cả. Hai bên hô hoán, xáp chiến vật lộn nhau một hồi, rồi tản mạn và rút lui có trật tự, không một bên nào bị tổn thất nhân mạng.

    Cũng từ đó, lính du kích Việt Cộng không bao giờ bén mảng đến chân núi Ông Sư, chứ nói chi là vô ngồi cười nói vô lễ, thất kính, ngổn ngang trong công viên điện thờ Phật Bà như những lúc trước. Ðại đội lính nghĩa quân trong làng Xuân Tự và lính canh phòng quân Vạn Ninh lại đều kiêng nể Phật, Bồ Tát, thánh linh Quán Âm từ dạo xảy ra chuyện “Ðức Quán Thế Âm ngăn cản sự giết choc” trong khuôn viên núi Ông Sư, điện Phật Bà Quán Thế Âm.

    Chuyện này chúng tôi biết rõ tự sự từ chi tiết, vì chỉ ngày hôm sau xảy ra cảnh lính đôi bên “ẩu đả” nhau trên núi linh thờ Phật Bà, đại úy tiểu đoàn phó giữ an ninh biên phòng quận Vạn Ninh và trung úy Nam hướng dẫn khoảng hơn một trăm người ăn bận lịch sự, mang lễ vật hương đèn, trái cây, gạo nếp, dầu thắp và một số tiền mặt đến chùa Giác Hải, gặp bổn sư chúng tôi, tức là Ðại sư Viên Giác trú trì chùa Giác Hải, sáng lập điện Quán Âm trình bày chuyện Quán Âm linh ứng, cứu thoát trên năm trăm mạng người, nhờ các nòng súng AKa và lựu đạn trái khế của Việt Cộng được Ðức Quán Âm hãm ngòi.

    Không bao lâu chuyện này được lan truyền khắp thôn xóm, tỉnh lỵ xa gần và đến tai các cấp chủ chiến đôi bên. Từ dạo ấy núi Ông Sư, chùa Giác Hải, Ðiện Quán Âm không còn là nơi sát phạt, thù nghịch lẫn nhau giữa người quốc gia và Việt Cộng nữa. Cũng từ dạo ấy người Phật tử, khách bàng quan, từ các tỉnh trong ra tỉnh ngoài và từ các tỉnh ngoài vào các tỉnh trong, ai ai cũng ghé chiêm cung, đãnh lễ điện Nam Hải Phật Bà ngày lại tháng qua đông như hội Tết. Nhân việc này, Bác Bảy Trưởng Bạn Hộ Niệm và nghi lễ chùa Giác Hải có thơ đề:

    TA BÀ NỞ HOA

    Nam bắc anh em một nhà

    Là con của mẹ Âu cơ hiền hòa

    Giết nhau chi huyết lệ nhòa

    Tổ tiên đắng mật khổ nhục cháu con

    Ðất trời cây cỏ núi sông

    Giọt sầu thiên cổ xa trông mỏi mòn

    Hiển linh sáng dậy đầu non

    Quán Âm hóa giải oan gia thâm thù

    Ðêm về trăng sáng trời thu

    Súng đôi bên hãm, mây mù sương tan

    Quân thoát nạn, dạ bình an

    Quán Âm Bồ Tát giải nàn ách tai

    Hoa từ bi kết sen đài

    Thánh linh Nam Hải độ đời lầm than

    Chấp tay quỳ tụng Ma- ha

    Xin cho khổ não ta bà nhẹ vơi

    Xin cho tình lại về ngôi

    Ðể cho súng đạn là hoa trôi dòng

    Xin cho vận nước long đong

    Biến thành hoa tạng khơi nguồn yêu thương

    Xin cho vạn đợt tai ương

    Biến thành chân thể bên đường trầm luân.




    (18) ÐÁT ÐIỆT THA – (Tadyatha) –

    Quán Âm hiện thân tướng

    A La Hán vào đời

    Tùy phương tiện thuyết pháp

    Giác hóa độ nhân sinh.



  13. #30
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts


    GIẢI NHẬP OAN KHIÊN



    Vong nhập người con gái

    Thuốc khó chữa trị lành

    Quán Âm thường lễ niệm

    Giải oan khiên khó trừ.

    Ở Ninh Hòa, cách tỉnh Nha Trang một giờ lái xe, có người con gái con một gia đình người Tàu giàu có tên là A Thố. A Thố người to, tướng mạo đẹp, mạnh khỏe, phương phi như một nữ võ tướng. Tuy vậy tâm tánh của A Thố rất hiền lành, thích đến chùa làm công quả, tụng kinh, niệm Phật và may y phục cho quý Thầy. Những mùa an cư, A Thố thường đến Phật học viện Hải Ðức ở Nha Trang phụ các dì nấu cơm, gánh nước cúng quý Thầy trong dịp lễ tự tứ, mãn ba tháng an cư kiết hạ. Nhờ biết tu tập, kính trọng chư Tăng, siêng năng làm việc, nói năng chất phác, vui vẻ nên từ trên Hòa Thượng Giám viện đến dưới đại chúng và các dì đều thương mến A Thố. Vì tìm được không khí an tịnh và niềm vui trong thời gian ở chùa làm công quả, nên A Thố có ý xin xuất gia làm đệ tử Ni sư Chánh Lượng ở chùa Hang, sau này gọi là chùa Hải Ấn, gần xóm Bóng, Nha Trang.

    Khi biết con gái có ý định xuất gia, cha mẹ A Thố rất mừng, vì hai ông bà và cả nhà rất trọng đạo, tổ tiên nhiều đời tin Phật, quy y Tam Bảo. Nhưng ý định đi tu của A Thố không được suông sẻ, vì cha mẹ có hứa gả A Thố cho một cậu con trai con một của ông bà Phú Hưng, một gia đình người Việt gốc Tàu, làm tiệm thuốc bắc ở Ninh Hòa rất khá giả. Nửa lòng thì muốn xuất gia làm ni cô, nửa lòng thì muốn lấy chồng, giữ chữ tín cho cha mẹ đối với ông bà sui, cha mẹ chồng tương lai. Vì sự việc này, nguyện xuất gia của A Thố kéo dài ba năm mà chưa thành. Trong cái rủi lại gặp cái may, cậu con trai của ông bà Phú Hưng, người chồng tương lai của A Thố bị tai nạn qua đời nên việc chọn đường đi tu của A Thố trở nên dễ dàng. Chừ trong cái may lại phải gặp cái rủi. A Thố đến lúc sữa soạn vào chùa để thế phát xuất gia thì bỗng nhiên nàng bị lên cơn điên.

    Bệnh điên của A Thố rất dễ sợ và khác thường. Mỗi khi A Thố lên cơn, nàng có đủ sức mạnh để lật ngược hay kéo lôi nổi một chiếc xe hơi đang chạy trên đường. A Thố rất thích và khoái chí làm việc này, nên cả nhà và ai biết tới, thấy đều kinh hoàng khiếp sợ. Vì vậy mà tay chân A Thố luôn luôn được trói bằng những sợi dây xích sắt to tướng. Thế nhưng mỗi khi A Thố lên cơn, nàng thét lên từng hồi, hai mắt đỏ ngầu như lửa, rồi nàng vùng vẫy một lúc. Cuối cùng các dây xích đều bị đứt từng khúc, tiếng kêu loảng xoảng hòa với tiếng cười vang như thách đố, ngạo nghễ và trêu chọc rồi nàng ném các đoạn dây xích bị đứt vào tận xa tít lên không. Cái sở thích khi A Thố lên cơn là nàng luôn giựt lấy các bóng đèn điện để ăn ngấu nghiến như nhai những ổ bánh mì nướng dòn. Những lúc đó, A Thố thường nổi cơn giận dữ, nghiến răng, dậm chân và thoát ra giọng the thé nơi cái miệng đầy máu me với âm thanh của một gã đàn ông: “Trời là kẻ đại gian ác, bất công. Trần gian là ngục tù là dày đặc bóng tối.” Câu nói này thường bị đứt quãng, vì uất nghẹn và bực tức.

    Có điều lạ là A Thố đã lên cơn suốt gần ba tháng, không hề chịu ăn uống gì cả mà thân thể không hề bị sút giảm, sức mạnh của A Thố còn tăng gấp mấy chục lần đối với lúc bình thường. Các bác sĩ giỏi trong các bệnh viện đều bó tay vì họ khám nghiệm đủ cách mà không tìm ra bệnh lý của A Thố. Cùng đường, gia đình được người mách bảo, họ đã xiềng A Thố vào trong một chiếc xe bọc lưới sắt và đưa A Thố đến chùa Giác Hải ở làng Xuân Tự nhờ đại sư Viên Giác chữa trị bệnh vong nhập.

    Ðại sư Viên Giác là thầy của chúng tôi, người chữa bệnh điên do tà nhập, quỷ ám rất thần diệu. Thấy A Thố bị trói xích sắt, tỏ vẻ hung hăng và giận dữ, thầy chúng tôi chỉ nhìn thẳng vào mặt A Thố rồi niệm chú lâm râm một hồi. A Thố quy phục và cúi đầu xuống đất. Thầy chúng tôi bảo người nhà mở trói cho bệnh nhân. A Thố ngồi yên, không la hét, không chạy nhảy và không bạo động. Thầy chúng bèn nhẩm niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và trì ba biến chú Ðại bi vào trong chén nước trong đem cho A Thố uống. Vừa uống xong chén nước, tóc A Thố dựng ngược lên và xoay tròn như gió thổi mạnh vào một đám lau sậy. A Thố gục đầu xuống khóc rồi mở lời the thé của một vong thức đàn ông bằng tiếng Việt lơ lớ: “ta là một anh linh ngoài vòng cương tỏa. Ai dám dùng danh nghĩa Quán Âm Bồ tát để hù ta, làm chướng ngại ước muốn của ta.”

    Ðại sư Viên Giác lên tiếng:

    “Ta là tỳ kheo, tự Chiếu Nhiên, trú trì chùa Giác Hải. Ta nương vào thần lực của đức Hóa thân Quán Thế Âm Bồ tát để khai tâm, độ thoát cho nhà ngươi. Nhà ngươi mau mau nói rõ tên tuổi ra để ta điểm hóa cho, chớ si mê cố chấp theo ái kiến mà phải đọa lạc luân hồi, ác thú trong kiếp này và vô lượng kiếp về sau, khổ cực vô tận, khó nguôi.”

    Vẫn một âm thanh the thé của đàn ông như khó thở vì bị thương tích từ cuống họng và bị dập tim gan:

    “Thưa sư phụ, con đây tên là T.M.H là vị hôn phu hụt của A Thố. Con chết vì tai nạn xe hơi khi đi chở hàng từ Sài Gòn ra Nha Trang, xe lật xuống chân núi vì mìn của lính Việt Cộng. Con chết quá đột ngột, không thể đi đầu thai được. Lại vì thương A Thố nên con đi theo A Thố để được sống bên nhau, đâu có ý làm hại A Thố.”

    Ðại sư Viên Giác hạ giọng thương xót và giải khuyên: “Ta đây thật thông cảm nổi khổ đau của nhà ngươi. Thôi hãy chí thành quy y theo Phật và chí tâm sám hối, niệm Phật theo lời ta dạy để được sớm giải thoát, đi đầu thai làm người, xả sạch oán thù. Nhà ngươi hãy đọc theo lời ta: “lời hướng dẫn hằn chấn của đại sư Viên Giác:

    “Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài giúp con chuyển thế làm người.

    Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài lấy nước cam lồ rửa sạch cho con mọi oan khiên.

    “Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài độ cho A Thố chóng khôi phục sức khoẻ và chí tu học vững bền.”

    Ðại sư tiếp tục dìu dắt vong linh:

    “Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Phật.

    Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Pháp.

    Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Tăng.

    Con đã quy y Phật rồi, không đọa vào địa ngục.

    Con đã quy y Pháp rồi, không đọa vào ngạ quỷ.

    Con đã quy y Tăng rồi, không đọa vào súc sanh.”

    Khi đại sư Viên Giác, thầy của chúng tôi dẫn dắt vong linh kia lặp lại ba lần quy y Tam Bảo vừa xong, bỗng nhiên A Thố ngã lăn trên mặt đất chừng năm phút rồi tỉnh dậy như một giấc ngủ dài mê man. A Thố ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra cho mình. A Thố lành bệnh, sức khoẻ bình phục ngay lúc đó khiến cha mẹ và mọi người trong thân quyến A Thố hết sức vui mừng. Chùa Giác Hải nhiều người biết tới nhờ thầy chúng tôi niệm đức Quán Thế Âm chữa lành bệnh vong nhập cho A Thố. Gạo cơm chùa dư nuôi điệu chúng, vải vóc có đủ may mặc, vài căn nhà sinh hoạt được xây dựng khang trang, chính là nhờ sự phát tâm cúng dường tích cực của gia đình A Thố và bà con dòng họ của A Thố. Thầy chúng tôi có bài thơ tặng gia đình A Thố mà tôi đã nằm lòng sau đây:

    Lễ Niệm Ðức Quán Thế Âm.

    Hằng ngày lễ kính mẹ hiền

    Quán Âm thường niệm vô biên linh mầu.

    Gặp cơn rối rắm khổ đau

    Quán Âm lễ niệm lệ sầu nhẹ vơi.

    Sóng lòng dẫu có trùng khơi

    Quán Âm lễ niệm đất trời chuyển rung

    Muộn phiền oan nghiệp tương phùng

    Quán Âm lễ niệm tâm không thoát nàn.

    Mạng vong hồn phách cơ hàn

    Quán Âm lễ niệm lạc bang hướng về.

    Nguyện mau chứng quả bồ đề

    Ta bà hóa hiện độ đời trầm luân
    .




    (19) ÁN A BÀ LÔ HÊ – (Om I Avaloka) –

    Quán Âm hiện thân tướng

    Ngôi tòa sen trang nghiêm

    Lòng từ bi vô lượng

    Hằng cứu khổ ban vui.



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 4 người đọc bài này. (0 thành viên và 4 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Sự Tiến Hóa Của Linh Hồn
    Gửi bởi duccuong trong mục Giao lưu tư tưởng
    Trả lời: 1
    Bài cuối: 10-20-2015, 07:03 PM
  2. Ngâm Thơ Phật Giáo - Cửa Phật Từ Bi - Đoàn Yên Linh
    Gửi bởi Mây trắng trong mục Thơ văn liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-07-2015, 04:34 PM
  3. Linh ứng Quán Thế Âm
    Gửi bởi phuctoan trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 3
    Bài cuối: 07-22-2015, 09:33 PM
  4. Trả lời: 0
    Bài cuối: 07-12-2015, 05:03 PM
  5. Chết Đi Sống Lại Cô Ba Cháo Gà Kể Việc Linh Hồn Được Gặp Thần Thánh
    Gửi bởi chonlinh trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 1
    Bài cuối: 07-08-2015, 08:24 PM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •