Có một sự tương đồng trong việc vẽ trên nước. Hình vẽ trên nước thì như sự phát khởi của các vọng tưởng từ nước là cái gì giống như giác tánh nội tại rigpa. Điều này được gọi là trạng thái tự-giải thoát xảy ra một cách tự nhiên. Bất kỳ vọng tưởng nào xuất hiện cần được đối xử như những hình vẽ trên nước, chúng xuất hiện từ nước và tan biến lại trong nước. Chúng hoàn toàn không thể sờ mó được. Mọi vọng tưởng xuất hiện từ rigpa tan biến trở lại vào rigpa, và khoảnh khắc đó chúng ta kinh nghiệm sự tự-giải thoát xảy ra một cách tự nhiên.

Bất kỳ sự hình thành tư tưởng nào khởi sanh từ rigpa phải được coi là thực phẩm tươi ngon cho giác tánh trống không bởi vì dù là loại tư tưởng nào, nó là một biểu lộ của Pháp Thân. Nó là sự phô diễn của Pháp Thân, vốn không dấu vết và tự do một cách tự nhiên. Chúng ta tìm thấy cách diễn cảm “A La La” trong bản văn gốc. Đây là một sự biểu lộ ngạc nhiên hay kỳ diệu. Trong trường hợp này, sự ngạc nhiên phải thực hiện với nhận thức bất ngờ rằng thậm chí các vọng tưởng cũng là một biểu lộ của Pháp Thân.

Là các hành giả bình thường, do khuynh hướng mạnh mẽ này bị khuynh loát bởi sự giam cầm của các tích tập nghiệp và sự hiện diện của các tích tập này, chúng ta có thể cho rằng ta phải kềm hãm các tư tưởng và hoàn thành điều gì đó. Vì thế chúng ta bị vướng mắc trong tiến trình sản sinh cái gì đó này để tiệt trừ mọi tập quán đã được tích tập. Đừng để cho những tình huống này chế ngự. Thay vào đó, hãy chỉ đơn giản nhớ tính cách tự-giải thoát xảy ra một cách tự nhiên này. Khi các ý niệm phát khởi, chúng tự giải thoát nếu các bạn hiểu rõ ba cách thức giải thoát. Sự nhận thức thì giống như việc nhận ra một người trong một đám đông mà đã lâu các bạn không gặp. Các tư tưởng tự giải thoát trong sự nhận thức. Một cách khác là các bạn nhận thức rằng chúng không có lợi hay có hại. Việc nhận thức rằng không có lợi hay có hại thì giống như một tên trộm vội vã đi vào một căn nhà và nhận ra là nó trống không và không có gì để làm. Hoặc, các tư tưởng tự giải thoát như một con rắn tự duỗi mình ra. Chỉ thư lỏng và biết rằng đây là giáo huấn cốt tủy quan trọng nhất. Nó đặt Dzogchen tách ngoài các con đường khác, gồm cả Trung Quán và Mahamudra (Đại Ấn). Đây là giáo lý cao tột của Dzogchen.

Có những cấp bậc thiền định khác đưa ra tới những mức độ cao hơn trong các cõi sắc và vô-sắc, nhưng những thiền định đó như sữa hư hay bơ thối bởi vì chúng là những trệch hướng đối với con đường đi tới sự thiền định chân thật. Bản tánh của tánh Không là Pháp Thân và sự thiền định là thiền định của sự ngơi nghỉ trong bản tánh của thực tại như nó là. Đây không phải là một thiền định phân tích. Đây là cách thức mọi khía cạnh của nghịch cảnh được đưa vào con đường để ngăn cản bất kỳ sự lạc lối nào do nỗ lực phân biệt giữa xấu và tốt, cần thiết và không cần thiết. Không có sự hiểu biết này, sự thiền định là con đường lầm lạc (vô minh). Đây là sự thiền định quy nhất giải thoát ta khỏi con đường lầm lạc.

Sự giải thoát không đến từ các kỹ thuật shamatha được sử dụng bởi cách tiếp cận Tiểu thừa, vì với các kỹ thuật này ta chỉ có thể thành tựu một trạng thái an trú yên bình tạm thời. Chúng không giải thoát tâm thức khỏi vấn đề căn bản, và vì thế các vọng tưởng tiếp tục phát khởi. Đây là lý do tại sao việc đạt được sự xác tín trong cái thấy và việc duy trì sự thiền định phù hợp với cái thấy thì thật quan trọng. Nó là phương cách duy nhất để giải trừ các vọng tưởng. Với kỹ thuật này các bạn sẽ như một người đi tới một đại lục tràn ngập châu báu và không có bất cứ một hòn đá tầm thường nào. Các vọng tưởng không đáng sợ chút nào. Chúng trở thành giòng chảy không ngưng nghỉ trong việc duy trì sự xác tín vào cái thấy.

Trong kinh nghiệm này mọi tri giác mê lầm được tịnh hóa trong sự phô diễn của Pháp Thân, và mọi nghịch cảnh xuất hiện như những bằng hữu của ta. Mọi mê lầm được bao hàm như con đường và sinh tử không bị loại trừ. Sinh tử thì toàn hảo trong bản tánh bẩm sinh của nó và ta được giải thoát khỏi sự trói buộc của sự hiện hữu hiện tượng, bởi ta đã kinh nghiệm trạng thái giải thoát không thể được tìm kiếm và nó vốn như thế. Nếu ta không có kinh nghiệm về Pháp Thân này, nó không phải là một sự thiền định, thì ta không bao giờ có thể hy vọng có được bất kỳ kết quả nào trên con đường. Bất kỳ sự thiền định nào mà ta thực hiện cũng sẽ chẳng bao giờ có lợi lạc. Nó sẽ chỉ là con đường lầm lạc, bởi ta vẫn bị trói buộc với sự bám chấp và dính mắc nhị nguyên. Sự bám chấp vào bản ngã và dính mắc với các hình tướng khách quan đã gây nên một sự phân cách giữa bản ngã và các đối tượng và sự phân cách giữa chúng sinh và Phật tánh, hay sinh tử và Niết bàn. Nếu ta thực hành kỹ thuật Dzogchen về sự xác định cái thấy và duy trì sự thiền định, là sự tỉnh giác về cái thấy, thì ta sẽ được giải thoát khỏi sự trói buộc của bám chấp và dính mắc nhị nguyên. Đây là trạng thái không do trau dồi (tu tập) của Pháp Thân. Ta đã có được sự xác tín nơi sự giải thoát, hiểu rõ đây là cách thức duy nhất để thành tựu sự giải thoát và sự xác tín đó là điểm trọng yếu thứ ba.