CHƯƠNG 1

DẪN NHẬP – KÍNH LỄ


Xin hãy lắng nghe giáo lý này với động lực trong sạch, cần phải nghĩ rằng : “Tôi sắp nghe giáo lý và thực hành để dẫn dắt tất cả chúng sinh vô hạn như không gian đến trạng thái toàn giác.”

Có tất cả chín thừa. Trong chín thừa này, có ba thừa ngoại dẫn dắt ta thoát khỏi nguồn gốc của đau khổ. Nhóm thừa thứ hai là các tantra ngoại, là những sự tiếp cận đem lại sự tỉnh giác nhờ những giới luật khổ hạnh. Và sau đó có ba thừa bí mật gồm các phương tiện thiện xảo dẫn đến kết quả cuối cùng. Khi các bạn nói đến bất kỳ thừa nào trong chín thừa thì điều tối quan trọng là bàn về hành động và động lực. Như vậy, động lực là gì? Động lực là để giải thoát tất cả chúng sinh trong vòng sinh tử, tâm thức họ bị lôi cuốn vào ba lỗi lầm của bình chứa, sáu sự ô nhiễm và năm cách suy tưởng sai lầm. Ta phải phát sinh động lực rằng : “Tôi sắp giải thoát tất cả chúng sinh đến trạng thái Phật tánh toàn giác nhờ sự lắng nghe và thực hành giáo lý Đại Viên Mãn. Tôi thực hiện điều này bởi tất cả chúng sinh đã từng là những cha mẹ tốt lành của tôi.”

Động lực riêng của ta phải được kết hợp với lòng bi mẫn vĩ đại nhắm tới sự giác ngộ. Các bạn cần phát triển sự thiết tha này và dấn mình vào động lực này. Đây là điều nhắm tới để sẵn sàng giải thoát tất cả chúng sinh. Các bạn luôn luôn nên bắt đầu sự thực hành của các bạn với một thái độ bi mẫn và quan tâm tới những người khác và với một ý hướng đạt sự giác ngộ là vì lợi lạc của họ.

Khi đang nghe giáo lý các bạn cần tập trung vào năm điều xác tín. Đừng nghĩ rằng bất kỳ điều gì trong những hiện tượng được nhận thức của các bạn là bình phàm. Ví dụ, nơi chốn chúng ta đang ở ngay bây giờ –Los Angeles – không được nhận thức như một chốn bình phàm cấu tạo bởi các chất thể như đất và đá mà đúng hơn, ta cần nhận thức nó như cõi Akanistha, như tịnh thể Dewachen của Đức Phật A Di Đà, hang Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ. Ta cần nhận thức vị thầy là Đức Phật Vajradhara, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hay Đức Padmasambhava, thay vì nhìn ngài như một con người bình thường với một thân xác bất tịnh. Giáo lý cũng cần được nhìn như sự chuyển Pháp luân vĩ đại. Thời gian là một sự tương tục không ngừng nghỉ. Những người nghe Pháp không được nhận thức như những người bình thường với những thân xác bất tịnh, mà đúng hơn là những Bồ tát, các daka và dakini.

Điều hết sức quan trọng là lắng nghe giáo lý với động lực và hành động trong sạch. Động lực phải thực hiện với tâm. Tối quan trọng là phải loại trừ hay từ bỏ bất kỳ loại độc chất tinh thần nào, để khơi dậy Bồ đề tâm quý báu, và hình dung năm điều xác tín một cách rõ ràng.

Theo lịch sử, Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được truyền dạy theo ba lối : Đức Phật đã dạy bằng các phép màu nhiệm, bằng luận cứ theo lối của học giả hay pandita vĩ đại, và nhờ sự thiền định theo lối của vị A la hán. Đức Phật dạy bằng ba phép màu nhiệm : sự hiển lộ kỳ diệu của thân, phép màu của ngữ, diễn tả nhiều loại vấn đề khác nhau; và phép màu nhiệm của tâm, diễn đạt giáo lý phù hợp với nhu cầu và năng lực của những cá nhân. Nhờ năng lực của những phép màu nhiệm, ngài có thể tỏa ra những tia sáng đủ màu từ thân ngài, bao trùm vũ trụ và làm nguôi dịu nỗi khổ ở đó. Đây là một cách thức mà ngài đã dạy, và có liên quan trực tiếp tới thân tướng của ngài.

Khi Đức Phật trình bày giáo lý lần đầu tiên, ngài phóng ra những tia sáng trắng, đỏ và xanh dương chói ngời tới ba thế giới và làm nguôi dịu nỗi khổ ở đó. Ánh sáng thì còn sáng rực hơn một triệu mặt trời. Nó tỏa chiếu khắp mọi cảnh giới và làm nguôi nỗi đau khổ ở những nơi đó. Những nỗi khổ của các địa ngục, chẳng hạn như sự lạnh và nóng, và những nỗi khổ của các ngạ quỷ, như sự đói và khát, đã được giảm bớt. Những đau khổ của cõi súc sinh, chẳng hạn như bị sai sử và hành hạ một cách tàn nhẫn, được vơi dịu. Ánh sáng đã tịnh hóa nỗi khổ cho rất nhiều chúng sinh trong các cõi khác nhau.

Đại dương sinh tử trải qua sự biến động bất thường và chư Phật xuất hiện trong vòng sinh tử xuất hiện trong phạm vi những sự kiện thời gian và không gian. Khi chư Phật xuất hiện, có những chúng sinh đã sẵn sàng để tự do và vì thế họ có thể được giải thoát nhưng chúng sinh không chín mùi để giải thoát không thể có được lợi lạc từ chu kỳ soi sáng đó. Vì thế vị Phật đó không thể giải trừ đau khổ của họ. Mọi kinh điển thường nói rằng nhờ sự thiền định mà ta có thể tẩy trừ đau khổ của tất cả chúng sinh, hay nói rằng Đức Phật tẩy trừ đau khổ của tất cả chúng sinh. Nếu các bạn hỏi : “Nếu như Đức Phật đã tẩy trừ một cách kỳ diệu mọi đau khổ thì tại sao vẫn còn chúng sinh?” Thực tế là có ba cách qua đó chúng ta có thể đạt giải thoát nhờ những sự ban phước của Đức Phật. Cách đầu tiên là nhờ được diện kiến Đức Phật và nhờ nhận lãnh giáo lý và do đó tìm ra con đường của ta đi đến sự giác ngộ. Cách thứ hai là mặc dù Đức Phật đã tịch diệt hoặc chúng ta không thể tìm gặp ngài, giáo lý của Đức Phật được truyền dạy bởi một người hay trong giáo lý được ghi chép lại của Đức Phật, cung cấp cho chúng ta những giáo huấn cần thiết nhờ đó ta có thể đạt được giải thoát. Cách thứ ba và là cách sâu xa nhất là bằng sự thấu suốt trực tiếp tức thời thực tại như nó là, và bằng cách tôi muốn nói là Đại Viên Mãn, đó là trạng thái giác tánh của riêng các bạn. Nhờ sự toàn giác của ngài, Đức Phật thấu suốt những năng lực tinh thần của tất cả chúng sinh và đã giảng dạy một cách phù hợp. Ngài có thể diễn tả tất cả các ngôn ngữ trong một lời và trong một lúc.