Kinh Duy Ma Cật86__________________________________________________ _____________________________________
Hóa Bồ Tát viết: Vật dĩ Thanh văn tiểu đức, tiểu trí, xứng lượng Như Lai vô lượng phước huệ. Tứ hải hữu kiệt, thử phạn vô tận. Sử nhất thiết nhân thực, đoàn nhược Tu-di, nãi chí nhất kiếp, du bất năng tận! Sở dĩ giả hà? Vô tận giới, định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, công đức cụ túc giả, sở thực chi dư, chung bất khả tận.
Ư thị bát phạn tất bão chúng hội, du cố bất tứ.
Kỳ chư Bồ Tát, Thanh văn, Thiên, Nhân thực thử phạn giả, thân an, khoái lạc, thí như nhất thiết lạc trang nghiêm quốc chư Bồ Tát dã. Hựu, chư mao khổng giai xuất diệu hương, diệc như Chúng Hương quốc độ chư thọ chi hương.
Nhĩ thời, Duy-ma-cật vấn Chúng Hương Bồ Tát: Hương Tích Như Lai dĩ hà thuyết pháp?
Bỉ Bồ Tát viết: Ngã độ Như Lai vô văn tự thuyết. Đản dĩ chúng hương, linh chư Thiên Nhân đắc nhập luật hạnh. Bồ Tát các các tọa hương thọ hạ, văn tư diệu hương, tức hoạch Nhất thiết Đức tạng Tam-muội. Đắc thị Tam-muội giả, Bồ Tát sở hữu công đức, giai tất cụ túc.
Bỉ chư Bồ Tát vấn Duy-ma-cật: Kim Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni dĩ hà thuyết pháp?
Duy-ma-cật ngôn: Thử độ chúng sinh cang cường nan hóa. Cố Phật vị thuyết cang cường chi ngữ dĩ điều phục chi. Ngôn: Thị Địa ngục, thị Súc sinh, thị Ngạ quỷ, thị chư nạn xứ, .........
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Kinh Duy Ma Cật86__________________________________________________ _____________________________________
Hóa Bồ Tát nói :
- Chớ đem trí hẹp đức nhỏ của Thanh Văn mà đo lường phúc tuệ vô lượng của Như Lai. Bốn bể còn có thể cạn, chớ cơm này không khi nào hết. Dẫu cho tất cả ngươi đều ăn mỗi vắt lớn như núi Tu di cho đến một kiếp cũng không hết được. Vì sao ? – Vì là món ăn dư của đấng đầy đủ công đức, vô tận giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, không bao giờ hết được.
Khi đó, với bát cơm ấy chúng hội đều no đủ mà cũng vẫn còn. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, người ăn cơm đó rồi thân thể nhẹ nhàng vui vẻ ví như các Bồ Tát ở cõi nước Nhứt thiết lạc trang nghiêm, và các lỗ chưn lông thoảng ra mùi hương bát ngát cũng như mùi hương các cây ở nước Chúng Hương.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi các vị Bồ Tát ở nước Chúng Hương rằng:
- Phật Hưong Tích lấy chi để nói pháp ?
Các Bồ Tát kia đáp :
- Phật cõi tôi không dùng văn tự để nói, chỉ dùng các mùi hương làm cho các Trời, Người được luật hạnh. Các Bồ Tát đều ngồi dưới cây hương, nghe mùi hương mầu nhiệm ấy đều được Tam muội Nhứt thiết đức tạng. Được Tam muội ấy đều được đầy đủ tất cả công đức của Bồ Tát.
Các Bồ Tát kia hỏi ông Duy Ma Cật rằng :
- Còn Phật Thích Ca Mâu Ni lấy gì để nói pháp ?
Ông Duy Ma Cật nói :
- Chúng sanh cõi này cang cường khó giáo hóa, cho nên Phật nói những lời cang cường để điều phục họ. Nói đó là Địa ngục; đó là Súc sanh; đó là Ngạ quỉ; đó là chỗ nạn;........
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Kinh Duy Ma Cật87__________________________________________________ _____________________________________
.....thị ngu nhân sinh xứ. Thị thân tà hạnh, thị thân tà hạnh báo. Thị khẩu tà hạnh, thị khẩu tà hạnh báo. Thị ý tà hạnh, thị ý tà hạnh báo. Thị sát sinh, thị sát sinh báo. Thị bất dữ thủ, thị bất dữ thủ báo. Thị tà dâm, thị tà dâm báo. Thị vọng ngữ, thị vọng ngữ báo. Thị lưỡng thiệt, thị lưỡng thiệt báo. Thị ác khẩu, thị ác khẩu báo. Thị vô nghĩa ngữ, thị vô nghĩa ngữ báo. Thị tham tật, thị tham tật báo. Thị sân não, thị sân não báo. Thị tà kiến, thị tà kiến báo. Thị khan lận, thị khan lận báo.
Thị hủy giới, thị hủy giới báo. Thị sân nhuế, thị sân nhuế báo. Thị giải đãi, thị giải đãi báo. Thị loạn ý, thị loạn ý báo. Thị ngu si, thị ngu si báo. Thị kết giới, thị trì giới, thị phạm giới. Thị ưng tác, thị bất ưng tác. Thị chướng ngại, thị bất chướng ngại. Thị đắc tội, thị ly tội. Thị tịnh, thị cấu. Thị hữu lậu, thị vô lậu. Thị tà đạo, thị chánh đạo. Thị hữu vi, thị vô vi. Thị thế gian, thị Niết-bàn.
Dĩ nan hóa chi nhân, tâm như viên hầu, cố dĩ nhược can chủng pháp, chế ngự kỳ tâm, nãi khả điều phục. Thí như tượng mã lỗng lệ bất điều. Gia chư sở độc, nãi chí triệt cốt, nhiên hậu điều phục. Như thị cang cường nan hóa chúng sinh. Cố dĩ nhất thiết khổ thiết chi ngôn, nãi khả nhập luật.
Bỉ chư Bồ Tát, văn thuyết thị dĩ, giai viết: Vị tằng hữu giả! Như Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Phật, ẩn kỳ vô lượng tự tại chi lực, nãi dĩ bần sở nhạo pháp, độ thoát chúng sinh. Tư chư Bồ Tát diệc năng lao khiêm, dĩ vô lượng đại Bi, sinh thị Phật độ.
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Kinh Duy Ma Cật87__________________________________________________ _____________________________________
đó là chỗ người ngu sanh; đó là thân làm việc tà; đó là quả báo của thân làm việc tà; đó là miệng làm việc tà; đó là quả báo của miệng làm việc tà; đó là ý làm việc tà, đó là quả báo của ý làm việc tà; đó là sát sanh, đó là quả báo của sát sanh; đó là không cho mà lấy; đó là quả báo của không cho mà lấy; đó là tà dâm, đó là quả báo của tà dâm; đó là vọng ngữ, đó là quả báo của vọng ngữ; đó là hai lưỡi, đó là quả báo của hai lưỡi; đó là lời nói ác, đó là quả báo của lời nói ác; đó là lời nói vô nghĩa, đó là quả báo của lời nói vô nghĩa; đó là tham lam, ganh ghét, đó là quả báo của tham lam, ganh ghét; đó là tức giận, đó là quả báo của tức giận; đó là tà kiến, đó là quả báo của tà kiến; đó là bỏn sẻn, đó là quả báo của bỏn sẻn; đó là phá giới, đó là quả báo của phá giới; đó là giận hờn, đó là quả báo của giận hờn; đó là lười biếng, đó là quả báo của lười biếng; đó là ý tán loạn, đó là quả báo của ý tán loạn; đó là ngu si, đó là quả báo của ngu si; đó là kiết giới, đó là giữ giới, đó là phạm giới; đó là nên làm, đó là không nên làm; đó là chướng ngại, đó là không chướng ngại; đó là mắc tội, đó là khỏi tội; đó là tịnh, đó là nhơ; đó là hữu lậu, đó là vô lậu; đó là tà đạo, đó là chánh đạo; đó là hữu vi, đó là vô vi; đó là thế gian, đó là Niết bàn.
Vì những người khó giáo hóa lòng như khỉ vượn, nên dùng bao nhiêu pháp để chế ngự lòng họ, mới có thể điều phục được. Ví như voi, ngựa ngang trái không điều phục được, phải thêm đánh đập dữ tợn cho đến thấu xương rối mới điều phục được. Chúng sanh cang cường khó giáo hóa cũng thế, nên phải dùng tất cả những lời khổ thiết mới có thể đưa họ vào khuôn khổ (luật hạnh).
Các Bồ Tát nước Chúng Hương kia nghe rồi nói rằng :
- Thật chưa từng có ! Như Phật Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ẩn cái sức tự tại vô lượng của Ngài mà dùng những phương pháp sở thích của người nghèo hèn để độ thoát chúng sanh. Các Bồ Tát đây cũng chịu khổ sở, nhún nhường, dùng lòng đại Bi vô lượng để sanh vào cõi Phật này.
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Kinh Duy Ma Cật88__________________________________________________ _____________________________________
Duy-ma-cật ngôn: Thử độ Bồ Tát, ư chư chúng sinh, đại bi kiên cố. Thành như sở ngôn. Nhiên kỳ nhất thế nhiêu ích chúng sinh, đa ư bỉ quốc bá niên kiếp hành. Sở dĩ giả hà? Thử Ta-bà thế giới hữu thập sự thiện pháp. Chư dư Tịnh độ chi sở vô hữu.
Hà đẳng vi thập? Dĩ bố thí nhiếp bần cùng. Dĩ tịnh giới nhiếp hủy cấm. Dĩ nhẫn nhục nhiếp sân nhuế. Dĩ tinh tấn nhiếp giải đãi. Dĩ thiền định nhiếp loạn ý. Dĩ trí huệ nhiếp ngu si. Thuyết trừ nạn pháp độ bát nạn giả. Dĩ Đại thừa pháp độ nhạo Tiểu thừa giả. Dĩ chư thiện căn tế vô đức giả. Thường dĩ tứ nhiếp thành tựu chúng sinh. Thị vi thập.
Bỉ Bồ Tát viết: Bồ Tát thành tựu kỷ pháp, ư thử thế giới hạnh vô sang vưu, sinh ư tịnh độ?
Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát thành tựu bát pháp, ư thử thế giới, hạnh vô sang vưu, sinh ư Tịnh độ.
Hà đẳng vi bát? Nhiêu ích chúng sinh nhi bất vọng báo. Đại nhất thiết chúng sinh thọ chư khổ não, sở tác công đức, tận dĩ thí chi.
Đẳng tâm chúng sinh, khiêm hạ vô ngại. Ư chư Bồ Tát, thị chi chư Phật. Sở vị văn kinh, văn chi bất nghi. Bất dữ Thanh văn, nhi tương vi bội. Bất tật bỉ cúng. Bất cao kỷ lợi, nhi ư kỳ trung, điều phục kỳ tâm. Thường tỉnh kỷ quá, bất tụng bỉ đoản. Hằng dĩ nhất tâm cầu chư công đức. Thị vi bát pháp.
Duy-ma-cật, Văn-thù-sư-lợi, ư Đại chúng trung, thuyết thị pháp thời, bá thiên thiên nhân giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Thập thiên Bồ Tát đắc vô sinh pháp nhẫn.
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Kinh Duy Ma Cật88__________________________________________________ _____________________________________
Ông Duy Ma Cật nói :
- Bồ Tát ở cõi này đối với chúng sanh, lòng đại Bi bền chắc thật đúng như lời các Ngài đã ngợi khen. Mà Bồ Tát ở cõi này lợi ích cho chúng sanh trong một đời còn hơn trăm nghìn kiếp tu hành ở cõi nước khác. Vì sao ? Vì cõi Ta bà này có mười điều lành mà các Tịnh độ khác không có. Thế nào là mười ? 1) Dùng bố thí để nhiếp độ kẻ nghèo nàn; 2) Dùng tịnh giới để nhiếp độ người phá giới; 3) Dùng nhẫn nhục để nhiếp độ kẻ giận dữ; 4) Dùng tinh tấn để nhiếp độ kẻ giải đãi; 5) Dùng thiền định để nhiếp độ kẻ loạn ý; 6) Dùng trí tuệ để nhiếp độ kẻ ngu si; 7) Nói pháp trừ nạn để độ kẻ bị tám nạn; 8) Dùng pháp Đại thừa để độ kẻ ưa pháp Tiểu thừa; 9) Dùng các pháp lành để cứu tế người không đức; 10) Thường dùng tứ nhiếp để thành tựu chúng sanh.
Các Bồ Tát kia hỏi :
- Bồ Tát phải thành tựu mấy pháp ở nơi cõi này làm không lầm lỗi, được sanh về cõi Tịnh độ ?
Ông Duy Ma Cật đáp :
- Bồ Tát thành tựu 8 pháp thời ở cõi này làm không lầm lỗi, được sanh về cõi Tịnh độ – Tám pháp là gi ? 1.- Lợi ích chúng sanh mà không mong báo đáp. 2.- Thay thế tất cả chúng sanh chịu mọi điều khổ não. 3.- Bao nhiêu công đức mình làm đều ban cho tất cả chúng sanh. 4.- Lòng bình đẳng đối với chúng sanh khiêm nhường không ngại, đối với Bồ Tát xem như Phật. 5.- Những Kinh chưa nghe, nghe không nghi. 6.- Không chống trái với hàng Thanh Văn. 7.- Thấy người được cúng dường cũng không tật đố, không khoe những lợi lộc của mình, ở nơi đó mà điều phục tâm mình. 8.- Thường xét lỗi mình, không nói đến lỗi của người, hằng nhứt tâm cầu các công đức.
Ông Duy Ma Cật và Ngài Văn Thù Sư Lợi nói pháp này rồi, ở trong đại chúng có cả trăm nghìn Trời, người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mười nghìn Bồ Tát chứng đặng Vô sanh pháp nhẫn.
________________
Chú thích của phẩm X
1. Trưởng giả chủ : Vị trưởng giả này được công chúng suy tôn làm chủ tể quản trị trong nuớc. Theo ngài Tăng Triệu giải : vì ở thời kỳ đó trong nước không có vua chúa, nên 500 vị trưởng giả kia mới suy tôn ông Nguyệt Cái làm chủ trong nước, nên gọi là Trưởng giả chủ.
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Hiện có 2 người đọc bài này. (0 thành viên và 2 khách)