Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................54
__________________________________________________ _____________________________________
Khi Ngài Đại Ca Diếp nói như thế rồi có ba vạn hai nghìn vị Thiên tử đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với Ngài Đại Ca Diếp rằng :
- Ngài Đại Ca Diếp ! Các vị làm Ma vương trong vô lượng vô số cõi nước ở mười phương phần nhiều là bực Bồ Tát trụ nơi pháp Bất khả tư nghị giái thoát, vì dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sanh nên thị hiện làm Ma vương.
Lại nữa, Ngài Ca Diếp ! Vô lượng Bồ Tát ở mười phương, hoặc có người đến xin tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, tủy não, huyết, thịt, da xương, xóm làng, thành ấp, vợ con, tôi tớ, voi ngựa, xe cộ, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, đồi mồi, y phục và các món ăn uống, mà người xin đó phần nhiều là bực Bồ Tát trụ pháp Bất khả tư nghị giải thoát dùng sức phương tiện đến thử thách để làm cho các Bồ Tát kia thêm kiên cố. Vì sao ? Bồ Tát trụ pháp Bất khả tư nghị giải thoát có thần lực oai đức nên mới dám làm việc bức ngặt để chỉ bày cho chúng sanh những việc khó làm như thế. Còn kẻ phàm phu hạ liệt không có thế lực, không thể làm bức ngặt được Bồ Tát, ví như con long tượng dày đạp, không phải sức lừa kham chịu nổi. Đó là môn trí tuệ phương tiện của Bồ Tát ở nơi pháp “Bất khả tư nghị giải thoát” vậy.
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Chú thích của phẩm VI
1. Bất tư nghị : Coi theo nghĩa số 3 ở phẩm I.
2. Hý luận : Những lời biện luận vô nghĩa, không đúng lý như thật. Trong Trung Luận nói : “Hý luận có 2 cách : 1) Ái luận, nghĩa là : Đối với tất cả pháp có tâm chấp đắm; 2) Kiến luận, là đối với tất cả pháp, khởi ra tri kiến cho là quyết định đúng lý”. Do ái kiến như thế làm mê mờ tâm tánh, mà sanh ra các thứ ngôn luận bất chánh gọi là hý luận.
3. A tăng kỳ : (Asamkhya) Tàu dịch là vô số, nghĩa là một số rất nhiều không tính đếm đặng. A tăng kỳ là số đứng đầu trong 10 số lớn : 1) A tăng kỳ, 2) Vô lượng, 3) Vô biên, 4) Vô đẳng, 5) Bất khả sổ, 6) Bất khả xưng, 7) Bất khả tư, 8) Bất khả lượng, 9) Bất khả thuyết, 10) Bất khả thuyết Bất khả thuyết.
4. Hằng hà sa : Cát sông Hằng, dụ cho số rất nhiều không thể lường tính đặng. Sông Hằng (Gange) là một con sông rất lớn ở nước Thiên Trúc, phát nguyên từ ao vô nhiệt não ở Hy mã lạp sơn bên Ấn độ chảy ra Ấn Độ dương (Océan Indien). Lòng sông và hai bên bờ có cát rất nhiều và mịn. Đương thời đức Phật nói pháp, gặp số gì quá nhiều đều mượn đó mà thí dụ.
5. Do tuần : Có 3 hạng : 1) 40 dặm tàu, 2) 60 dặm, 3) 80 dặm.
6. Ngoan Đà : Ngoan là con giải. Đà là một loại cá sấu dài hơn hai trượng, bốn chân, da nó dùng dể bịt trống.
7. Một kiếp : Nghĩa là một khoảng thời gian rất lâu dài. Một kiếp lớn có 4 kiếp trung, 1 kiếp trung có 20 kiếp nhỏ. Trong một kiếp nhỏ có 16.800.000 năm; một kiếp trung có 16.800.000 x 20 = 336.000.000 năm. Một kiếp lớn có 336.000.000 x 4 = 1.344.000.000 năm.
8. Thế chúa : Có chỗ chỉ Tứ Thiên Vương, hay là vị Phạm Thiên, hoặc là vị Đại Tự Tại Thiên, tức là vị làm chủ trong cõi thế gian.
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................55
__________________________________________________ _____________________________________
VII PHẨM QUÁN CHÚNG SANH (1)
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng :
- Bồ Tát quán sát chúng sanh phải thế nào ?
Ông Duy Ma Cật đáp :
- Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn của mình hóa ra, Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế. Như người trí thấy trăng dưới nước, thấy mặt trong gương, như ánh nắng dợn, như vang của tiếng, như mây giữa hư không, như bọt nước, như bóng nổi, như cây chuối bền chắc, như chớp dừng lâu, như đại thứ năm (2), như ấm thứ sáu (3), như tình (căn) thứ bảy (4), như nhập thứ mười ba (5), như giới thứ mười chín (6). Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế.
Như sắc chất cõi vô sắc (7), như mộng lúa hư, như thân kiến của Tu đà hoàn (8), như sự nhập thai của A na hàm (9), như tam độc của A la hán (10), như tham giận phá giới của Bồ Tát chứng Vô sanh nhẫn, như tập khí phiền não của Phật, như người mù thấy sắc tượng, như hơi thở ra vào của người nhập Diệt tận định (11), như dấu chim giữa hư không, như con của đàn bà không sanh đẻ (Thạch nữ) (12), như phiền não của người huyễn hóa, như cảnh chiêm bao khi đã thức, như người diệt độ thọ lấy thân, như lửa không khói. Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế đó.
Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi :
- Nếu Bồ Tát quán sát như thế phải thật hành lòng từ thế nào ?
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................56
__________________________________________________ _____________________________________
Ông Duy Ma Cật đáp rằng :
- Bồ Tát quán sát như thế rồi phải tự nghĩ rằng : “Ta phải vì chúng sanh nói pháp như trên, đó là lòng từ chân thật. Thật hành lòng từ tịch diệt, bởi vì không sanh. Thật hành lòng từ không nóng bức, bởi không có phiền não. Thật hành lòng từ bình đẳng, bởi ba đời như nhau. Thật hành lòng từ không đua tranh, bởi không có khởi. Thật hành lòng từ không hai, bởi trong ngoài (căn trần) không hiệp. Thật hành lòng từ không hoại, bởi hoàn toàn không còn. Thật hành lòng từ kiên cố, bởi lòng không hủy hoại. Thật hành lòng từ thanh tịnh, bởi tánh các pháp trong sạch. Thật hành lòng từ vô biên, vì như hư không. Thật hành lòng từ A la hán, vì phá các giặc kiết sử (13). Thật hành lòng từ Bồ Tát, vì an vui chúng sanh. Thật hành lòng từ Như Lai, vì đặng tướng như như. Thật hành lòng từ của Phật, vì giác ngộ chúng sanh. Thật hành lòng từ tự nhiên, vì không nhơn đâu mà đặng.
Thật hành lòng từ Bồ Đề, chỉ có một vị. Thật hành lòng từ vô đẳng (không chi sánh bằng), vì đoạn các ái kiến. Thật hành lòng từ đại bi, dẫn dạy cho pháp Đại thừa. Thật hành lòng từ không nhàm mỏi, quán không, vô ngã. Thật hành lòng từ pháp thí, không có luyến tiếc. Thật hành lòng từ trì giới, để hóa độ người phá giới. Thật hành lòng từ nhẫn nhục, để ủng hộ người và mình. Thật hành lòng từ tinh tấn, để gánh vác chúng sanh. Thật hành lòng từ thiền định, không thọ mùi thiền. Thật hành lòng từ trí tuệ, đều biết đúng nhịp. Thật hành lòng từ phương tiện, thị hiện tất cả. Thật hành lòng từ không ẩn dấu, lòng ngay trong sạch. Thật hành lòng từ thâm tâm, không có hạnh xen tạp. Thật hành lòng từ không phỉnh dối, không có lừa gạt. Thật hành lòng từ an vui, làm cho tất cả được sự an vui của Phật. Lòng từ của Bồ Tát là như thế đó.
Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi :
- Sao gọi là lòng bi ?
- Bồ Tát làm công đức gì cốt để cho chúng sanh.
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................57
__________________________________________________ _____________________________________
- Sao gọi là lòng hỷ ?
- Có lợi ích đều hoan hỷ, không hối hận.
- Sao gọi là lòng xả ?
- Những phước báu đã làm, không có lòng hy vọng.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi :
- Sự sanh tử đáng sợ, Bồ Tát phải y nơi đâu ?
Ông Duy Ma Cật đáp :
- Bồ Tát ở trong sanh tử đáng sợ đó, phải y nơi sức công đức của Như Lai.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi :
- Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi đâu ?
- Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi chỗ độ thoát tất cả chúng sanh.
Lại hỏi :
- Muốn độ chúng sanh phải trừ những gì ?
- Muốn độ chúng sanh phải trừ phiền não.
- Muốn trừ phiền não phải thật hành những gì ?
- Phải thật hành chánh niệm.
- Thế nào là thật hành chánh niệm ?
Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
mà trong kho lẫm vẫn không có gì.
Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)