DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 1/2 12 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 357
  1. #1
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts
    Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................05
    __________________________________________________ _____________________________________


    Phật dạy rằng : “Này Bảo Tich ! Tất cả chúng sanh là cõi Phật của Bồ Tát. Vì sao ? – Bồ Tát tùy chỗ giáo hóa chúng sanh mà lãnh lấy cõi Phật (Tịnh độ); tùy chỗ điều phục chúng sanh mà lãnh lấy cõi Phật ; tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào vào trí tuệ của Phật mà lãnh lấy cõi Phật ; tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào phát khởi căn tánh Bồ Tát mà lãnh lấy cõi Phật. Vì sao thế ? – Vì Bồ Tãt lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh đều vì muốn lợi ích chúng sanh. Ví như : Có người muốn xây dựng cung nhà nơi khoảng đất trống, tùy ý được thành công, nếu xây dựng giữa hư khỏng quyết không thành tựu được ; Bồ Tát cũng thế, vì thành tựu chúng sanh nên nguyện lãnh lấy cõi Phật – Nguyện lãnh lấy cõi Phật chẳng phải ở nơi rỗng không vậy.

    Bảo Tích, ông nên biết ! - Trực tâm (49) là Tịnh dộ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh không dua vạy, sanh sang nước dó. Thâm tâm (50) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ công đức sanh sang nước đó. Bồ Đề tâm (51) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh có tâm đại thừa sanh sang nước đó. Bố thí là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh hay thí xả tất cả mọi vật sanh sang nước đó. Trì giớí là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh tu mười điều lành (52), hạnh nguyện đầy đủ, sanh sang nước đó. Nhẫn nhục là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh đủ 32 tướng tốt (53) trang nghiêm sanh sang nước đó. Tinh tiến là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh siêng tu mọi công đức sanh sang nước đó. Thiền định là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh biết thu nhiếp tâm chẳng loạn sanh sang nước đó. Trí tuệ là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh được chánh định sanh sang nước đó. Tứ vô lượng tâm(54) là Tịnh độ của Bồ Tát ; Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh thành tựu từ, bi, hỷ, xả sanh sang nước đó. Tứ nhiếp Pháp (55) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh được giải thoát sanh sang nước đó.



    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

  2. The Following User Says Thank You to Thanh Trúc For This Useful Post:

    colaihi (11-23-2017)

  3. #2
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts
    Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................06
    __________________________________________________ _____________________________________


    Phương tiện thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, ư nhất thiết pháp phương tiện vô ngại chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Tam thập thất đạo phẩm thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, giác, đạo chúng sinh lai sinh kỳ quốc. Hồi hướng tâm thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, đắc nhất thiết cụ túc công đức quốc độ. Thuyết trừ bát nạn thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, quốc độ vô hữu tam ác, bát nạn. Tự thủ giới hạnh, bất cơ bỉ khuyết, thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, quốc độ vô hữu phạm cấm chi danh. Thập thiện thị Bồ Tát tịnh độ, Bồ Tát thành Phật thời, mạng bất trúng yểu, đại phú, phạm hạnh, sở ngôn thành đế, thường dĩ nhuyễn ngữ, quyến thuộc bất ly, thiện hòa tranh tụng, ngôn tất nhiêu ích, bất tật, bất khuể chánh kiến chúng sinh lai sinh kỳ quốc.
    Như thị, Bảo Tích! Bồ Tát tùy kỳ trực tâm, tắc năng phát hành. Tùy kỳ phát hành, tắc đắc thâm tâm. Tùy kỳ thâm tâm, tắc ý điều phục. Tùy kỳ điều phục, tắc như thuyết hành. Tùy như thuyết hành, tắc năng hồi hướng. Tùy kỳ hồi hướng, tắc hữu phương tiện. Tùy kỳ phương tiện, tắc thành tựu chúng sinh. Tùy thành tựu chúng sinh, tắc Phật độ tịnh. Tùy Phật độ tịnh, tắc thuyết pháp tịnh. Tùy thuyết pháp tịnh, tắc trí huệ tịnh. Tùy trí huệ tịnh, tắc kỳ tâm tịnh. Tùy kỳ tâm tịnh, tắc nhất thiết công đức tịnh.
    Thị cố Bảo Tích, nhược Bồ Tát dục đắc tịnh độ, đương tịnh kỳ tâm. Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh.
    Nhĩ thời, Xá-lỵ-phất, thừa Phật oai thần, tác thị niệm: Nhược Bồ Tát tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh giả. Ngã Thế Tôn, bổn vi Bồ Tát thời, ý khởi bất tịnh, nhi thị Phật độ bất tịnh nhược thử?




    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

  4. The Following User Says Thank You to Thanh Trúc For This Useful Post:

    colaihi (11-23-2017)

  5. #3
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts
    Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................06
    __________________________________________________ _____________________________________


    Phương tiện là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh khéo dùng đặng phương tiện không bị ngăn ngại ở các pháp, sanh sang nước dó. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo (56) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật chúng sanh đầy đủ niệm xứ, chánh cần, thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạo, sanh sang nước đó. Hồi hướng tâm (57) là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, được cõi nước đầy đủ tất cả công đức. Nói Pháp trừ tám nạn là Tịnh độ của Bồ Tát ; khi Bồ Tát thành Phật, cõi nước không có ba đường ác (58) và tám nạn (59) . Tự mình giữ giới hạnh không chê chỗ kém khuyết của người khác là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, cõi nưỡc không có tên phạm giới cấm. Mười điều lành là Tịnh độ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh sống lâu, giàu to, phạm hạnh (60), lời nói chắc thật, thường dùng lời dịu dàng, quyến thuộc không chia rẻ, khéo giải hòa việc đua tranh kiện cáo, lời nói có lợi ich, không ghét không giận, thấy biết chân chánh sanh sang nước đó.

    Như thế, Bảo Tích ! Bồ Tát tùy chỗ trực tâm mà hay phát hạnh, tùy chỗ phát hạnh mà được thâm tâm, tùy chỗ thâm tâm mà ý được điều phục, tùy chỗ ý được điều phục mà làm được như lời nói, tùy chỗ làm được như lời nói mà hay hồi hướng, tùy chỗ hồi hướng mà có phương tiện, tùy chỗ có phương tiện mà thành tựu chúng sanh, tùy chỗ thành tựu chúng sanh mà cõi Phật được thanh tịnh, tùy chỗ cõi Phật thanh tịnh mà nói Pháp được thanh tịnh, tùy chỗ nói Pháp thanh tịnh mà trí tuệ được thanh tịnh, tùy chỗ trí tuệ thanh tịnh mà tâm thanh tịnh, tùy chỗ tâm thanh tịnh mà tất cả công đức đều thanh tịnh. Cho nên, Bảo Tích này !
    Bồ Tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm thanh tịnh; tùy chỗ Tâm thanh tịnh mà cõi Phật được thanh tịnh.

    Lúc ấy, ông Xá Lợi Phất nương oai thần của Phật mà nghĩ rằng : “Nếu tâm Bồ Tát thanh tịnh chắc cõi Phật phải được thanh tịnh, vậy Thế Tôn ta khi trước làm Bồ Tát tâm ý lẽ nào không thanh tịnh, sao cõi Phật này không thanh tịnh như thế ?”.



    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

  6. The Following User Says Thank You to Thanh Trúc For This Useful Post:

    colaihi (11-23-2017)

  7. #4
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts
    Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................07
    __________________________________________________ _____________________________________


    Phật tri kỳ niệm, tức cáo chi ngôn: Ư ý vân hà? Nhật nguyệt khởi bất tịnh da, nhi manh giả bất kiến?

    Đối viết: Phất dã, Thế Tôn! Thị manh giả quá, phi nhật nguyệt cữu.

    Xá-lỵ-phất! Chúng sinh tội cố, bất kiến Như Lai quốc độ nghiêm tịnh, phi Như Lai cữu.

    Xá-lỵ-phất! Ngã thử độ tịnh, nhi nhữ bất kiến.

    Nhĩ thời, Loa Kế Phạm vương ngứ Xá-lỵ-phất: Vật tác thị niệm, vị thử Phật độ dĩ vi bất tịnh. Sở dĩ giả hà? Ngã kiến Thích-ca Mâu-ni Phật độ thanh tịnh, thí như Tự tại thiên cung.

    Xá-lỵ-phất ngôn: Ngã kiến thử độ, khưu lăng khanh khảm, kinh cức sa lịch, thổ thạch chư sơn, uế ác sung mãn.

    Loa Kế Phạm vương ngôn: Nhân giả tâm hữu cao hạ, bất y Phật huệ. Cố kiến thử độ vi bất tịnh nhĩ.
    Xá-lỵ-phất! Bồ Tát ư nhất thiết chúng sinh, tất giai bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh, y Phật trí huệ, tắc năng kiến thử Phật độ thanh tịnh.

    Ư thị, Phật dĩ túc chỉ án địa. Tức thời, tam thiên đại thiên thế giới, nhược can bá thiên trân bảo nghiêm sức, thí như Bảo Trang Nghiêm Phật vô lượng công đức bảo trang nghiêm độ. Nhất thiết đại chúng thán: Vị tằng hữu! Nhi giai tự kiến tọa bảo liên hoa.

    Phật cáo Xá-lỵ-phất: Nhữ khả quan thị Phật độ nghiêm tịnh?

    Xá-lỵ-phất ngôn: Duy nhiên, Thế Tôn! Bổn sở bất kiến, bổn sở bất văn. Kim Phật quốc độ nghiêm tịnh tất hiện.




    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

  8. #5
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts
    Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................07
    __________________________________________________ _____________________________________


    Phật biết ông suy nghĩ vậy liền bảo rằng :

    – Ý ông nghĩ sao ? Mặt trời, mặt trăng há không thanh tịnh sáng suốt ư, sao người mù không thấy ?

    – Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải thế. Đó là tại người mù, không phảỉ lỗi ở mặt trời và mặt trăng.

    – Xá Lợí Phất ! Cũng thế, bởi chúng sanh do tội chướng nên không thấy được cõi nước của Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chớ không phải lỗi ở Như Lai – Này Xá Lợi Phất ! Cõi nước của ta đây vẫn thanh tịnh mà tại ông không thấy đó thôi.

    Bấy giờ ông Loa Kế Phạm Vương thưa với ông Xá Lợi Phất rằng :

    – Ngài chớ nghĩ như thế, mà cho cõi Phật đây là không thanh tịnh. Vì sao ? – Vì tôi thấy cõi nước của Phật Thích Ca Mâu Ni thanh tịnh, ví như cung trời Tự Tại (61).

    Ông Xá Lợí Phất nói :

    – Sao tôi thấy cõi này toàn gò nỗng, hám hố, chông gai, sỏi sạn, đất đá, núi non, nhơ nhớp dẫy đầy như thế ?

    Ông Loa Kế Phạm Vương thưa rằng :

    – Đấy là do tâm của Ngài có cao thấp không nương theo trí tuệ của Phật nên thấy cõi này không thanh tịnh đó thôi – Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh y theo trí tuệ của Phật thì mới thấy được cõi Phật này thanh tịnh.

    Khi ấy Phật lấy ngón chơn nhấn xuống đất, tức thì cõi Tam thiên đại thiên thế giới liền hiện ra bao nhiêu trăm nghìn thứ trân bảo trang nghiêm rực rỡ, như cõi Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm của Phật Bảo Trang Nghiêm. Tất cả Đại chúng ngợi khen chưa từng có và đều thấy mình ngồi trên tòa sen báu.

    Phật bảo Xá Lợi Phất :

    – Ông hãy xem cõi Phật, đây trang nghiêm thanh tịnh.

    Ông Xá Lợi Phất thưa :

    – Dạ, bạch Thế Tôn ! Từ trước đến giờ con chưa từng thấy, chưa từng nghe. Nay cõi nước của Phật đều hiện rõ trang nghiêm thanh tịnh.


    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

  9. #6
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts
    Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................08
    __________________________________________________ _____________________________________



    Phật cáo Xá-lỵ-phất: Ngã Phật quốc độ thường tịnh nhược thử. Vị dục độ tư hạ liệt nhân cố, thị thị chúng ác bất tịnh độ nhĩ. Thí như chư Thiên, cộng bảo khí thực. Tùy kỳ phước đức, phạn sắc hữu dị.

    Như thị, Xá-lỵ-phất! Nhược nhân tâm tịnh, tiện kiến thử độ công đức trang nghiêm.

    Đương Phật hiện thử quốc độ nghiêm tịnh chi thời, Bảo Tích sở tương ngũ bá trưởng giả tử, giai đắc vô sinh pháp nhẫn. Bát vạn tứ thiên nhân, giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.

    Phật nhiếp thần túc. Ư thị, thế giới hoàn phục như cố. Cầu Thanh văn thừa giả, tam vạn nhị thiên chư Thiên cập Nhân, tri hữu vi pháp giai tất vô thường, viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Bát thiên tỳ-kheo bất thọ chư pháp, lậu tận, ý giải.


    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

  10. #7
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts
    Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................08
    __________________________________________________ _____________________________________


    Phật bảo :
    – Này Xá Lợi Phất ! Cõi nước của ta thường thanh tịnh như thế ! Nhưng vì muốn độ những kẻ căn cơ hạ liệt nên thị hiện ra cõi đầy nhơ nhớp xấu xa bất tịnh đó thôi. Ví như Chư Thiên đồng dùng một thứ bát bằng ngọc báu để ăn, nhưng tùy phước đức của mỗi vị mà sắc cơm có khác. Như thế, Xá Lợi Phất ! Nếu tâm người thanh tịnh, sẽ thấy cõi này công đức trang nghiêm.

    Trong khi Phật hiện ra cõi nước trang nghiêm thanh tịnh, 500 vị Trưởng giả tử do ông Bảo Tích dắt đến đều chứng được vô sanh Pháp nhẫn, tám vạn bốn nghìn người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

    Bấy giờ Phật thâu nhiếp thần túc (62) lại, cõi nước trở thành như xưa. Ba vạn hai nghìn người và Trời cầu Thanh văn thừa đều nhận rõ các Pháp hữu vi (63) là vô thường, xa lìa trần cấu (64) đặng pháp nhãn thanh tịnh (65), tám nghìn vị Tỳ kheo không còn chấp thọ các pháp, kiết lậu (66) đã hết, tâm ý được giải thoát.


    -- o o 0 o o --


    Chú thích của phẩm I :

    1. Kinh: Nói đủ là “Khế kinh”, nghĩa là “pháp thường” khế hiệp chơn lý cùng khế hiệp căn cơ chúng sanh.

    2. Duy Ma Cật: Tên một vị Trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly, tàu dịch là “Tịnh Danh”.

    3. Bất khả tư nghị giải thoát: Là pháp môn giải thoát tự tại vô ngại không thể nghĩ bàn. Hai chữ “Giải thoát” đây là xa lìa tất cả phiền não nghiệp chướng khổ lụy, cứu cánh viên mãn tự tại vô ngại, không phải như hàng Nhị thừa giải thoát sanh tử mà còn chướng ngại với cảnh pháp... Xem phẩm Bất khả tư nghị sau thời rõ.

    4. Phật quốc: Cõi nước của Phật. Như Tây phương Tịnh độ là cõi nước của Phật A Di Đà, Ta bà là cõi nước của Phật Thích Ca.

    5. Tỳ Da Ly: Tàu dịch là Quảng Nghiêm, nghĩa là thành này châu vi rộng lớn rất trang nghiêm, tốt đẹp, ở về Trung Ấn Độ.

    6. Am La : Tàu dịch là “nan phân biệt” nghĩa là thứ trái cây này từ khi còn sống đến khi chín chỉ có một màu xanh nên khó phân biệt được trái nào sống trái nào chín.

    7. Sư tử rống: dụ Phật, Bồ Tát thuyết pháp tự tại không sợ sệt, lại làm cho tất cả phiền não mê tánh của chúng sanh đều tiêu trừ, ví như sư tử rống lên một tiếng thì tất cả các thú đều khiếp sợ chạy trốn .

    8. Sáu căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

    9. Ba nghiệp: 1)Thân nghiệp, 2) Khẩu nghiệp, 3) Ý nghiệp.

    10. Năm món che ngăn:
    _ 1) Tham dục ;
    _ 2) Sân nhuế ;
    _ 3) Thùy miên: Tâm hôn trầm không làm chi được;
    _ 4) Trạo hối: Trong tâm có sự ăn năn xao động ;
    _ 5) Nghi pháp : Đối với việc gì cũng mờ ám dụ dự không quyết đoán.
    Năm món này hay che đậy chơn tánh và làm cho các pháp lành không phát khởi hiển lộ được.




    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

  11. #8
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts


    11. Mười điều ràng buộc:
    _ 1) Vô tàm : có tội lỗi mà không biết hổ :
    _ 2) Vô quý : có tội lỗi người khác biết được mà không thẹn.
    _ 3) Tật : thấy người hiền đức giàu sang sanh lòng ghen ghét;
    _ 4) Xan : bỏn sẻn không Bố thí;
    _ 5) Hối: ăn năn những tội lỗi đã làm;
    _ 6) Thùy miên: hôn mê không tỉnh sát được thâm tâm;
    _ 7) Điệu cử : Tâm niệm xao động;
    _ 8) Hôn trầm : thần thức hôn mê không rõ biết chi cả;
    _ 9) Sân hận : đối trước nghịch cảnh sanh tâm giận dũi;
    _ 10) Phú : che dấu tội ác.

    12. Niệm định tổng trì: Niệm tức là Tuệ; Tổng Trì: gồm nhiếp tất cả các pháp. Trong định gồm có tuệ, trong tuệ gồm có định gọi là niệm định tổng trì.

    13. Vô sở đắc: Là đối với hữu sở đắc mà nối. Nghĩa là không còn trụ trước một pháp nào cả, dầu trí chứng và cảnh chứng cũng không thấy có.

    14. Vô sanh pháp nhẫn: Vô sanh tức là không sanh không diệt. Nhẫn có nghĩa là tin nhận giữ gìn; là nói dùng trí vô lậu an trú trong thể chơn lý bất sanh bất diệt, tâm không lay động. Trong “Đại Trí Độ luận”, quyển 50 nói : “Đối thật tướng vô sanh diệt của các pháp, tin nhận thông suốt, không ngăn ngại, không thối lui, gọi là Vô sanh nhẫn”.

    15. Pháp luân bất thối : Phật Bồ Tát thuyết pháp gọi là chuyển pháp luân. Các bậc Bồ Tát nghe pháp Phật dạy, đạo niệm càng thêm tăng tấn gọi là bất thối (không lui). Lại các bậc Bồ Tát đã chứng được “bất thối” rồi, đem pháp ấy dạy cho chúng sanh để cho được bất thối, nên gọi là chuyển pháp luân bất thối .

    16. Đại chúng: là một nhóm người đông. Trong những thời thuyết pháp của Phật, trừ Phật ra còn bao nhiêu bậc Hiền Thánh đều gọi là đại chúng. Chúng Tăng theo Phật tu học cũng gọi là Đại chúng.

    17. Tu Di: Tàu dịch là Diệu Cao, núi này thuần bằng bốn chất báu: vàng: bạc, lưu ly, pha lê rất xinh đẹp nên gọi là Diệu, Cao hơn tất cả núi khác nên gọi rằng Cao.

    18. Lý Duyên khởi: Tất cả các pháp đều từ nơi các duyên nhóm họp mà sanh khởi. Vì tỏ ngộ lý duyên khởi, nhận rõ các pháp không thật có, như huyễn hóa nên chẳng chấp có, nhưng các pháp là do duyên sanh, không phải hẳn là không, nên chẳng chấp không. Có không đều lìa, mới là thâm nhập lý duyên khởi.

    19. Hải đạo sư: Là nguời rất rành giỏi đường biển, làm thầy hướng đạo dắt dẫn các kẻ thương nhân vào biển để tìm ngọc báu không sợ lạc đàng. Dụ cho Phật và Bồ Tát là bực dắt dẫn chúng sanh đi vào chánh đạo không sai lạc.

    20. Thập lực: Mười trí lực của Phật. Trí lực của Phật

    _ 1) Biết rõ những điều hợp lý và trái lý.

    _ 2) Biết rõ nhơn quả nghiệp báo của chúng sanh trongng ba đời.

    _ 3) Biết rõ các pháp thiền định giải thoát tam muội.

    _ 4) Biết rõ tùng bực cao thấp các căn tánh của chúng sanh.

    _ 5) Biết rõ những ưa muốn sai khác của chúng sanh.

    _ 6) Biết rõ tất cả những cảnh giới sai khác của chúng sanh trong thế gian.

    _ 7) Biết rõ chỗ đi đến của tất cả phàm phu, Hiền Thánh thế gian và xuất thế gian.

    _ 8) Biết rõ tánh danh khổ, vui, thọ, yễu của tất cả chúng sanh.

    _ 9) Biết rõ sự sống chết qua lại các kiếp trước của tất cả chúng sanh, và vô lậu Niết bàn của các Hiền Thánh.

    _ 10) Tự biết mình đã dứt hết nghiệp hoặc tập khí, không còn sanh tử triền phược nữa.




    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

  12. #9
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts


    21. Vô úy: Bốn món vô úy :
    _ 1) Nhứt thế trí: hiểu biết tất cả pháp thế gian và xuất thế gian;
    _ 2) Lậu tận: hoặc nghiệp sanh tử đều biết hết;
    _ 3) Thuyết chướng đạo: nói pháp ma ngoại là chướng thánh đạo;
    _ 4) Thuyết tận khổ đạo: nói những đạo pháp có thế diệt hết các khổ.
    Bốn điều này Phật đối giữa Đại chúng các hàng Thiên ma, Phạm thiên, Sa môn, Bà la môn, nói một cách tự tại không sợ ai, không ai nói đuợc nên gọi là “Vô úy”.

    22. Thập bát bất cọng: Mười tám (18) Pháp bất cọng này chỉ có Phật chứng đặng mà chẳng chung đồng với hàng Nhị thừa và Bồ Tát.
    _ 1) Thân không lỗi.
    _ 2) Miệng không lỗi.
    _ 3) Niệm không lỗi.
    _ 4) Không có tâm tuởng khác.
    _ 5) Không có tâm bất định.
    _ 6) Không có tâm không biết.
    _ 7) Sự muốn không giảm.
    _ 8) Tinh tấn không giảm.
    _ 9) Niệm không giảm.
    _ 10) Huệ không giảm.
    _ 11) Giải thoát không giảm.
    _ 12) Giải thoát tri kiến không giảm.
    _ 13) Tất cả thân nghiệp theo trí tuệ mà hành động.
    _ 14) Tất cả khẩu nghiệp theo trí tuệ mà hành động.
    _ 15) Tất cả ý nghiệp theo trí tuệ mà hành động.
    _ 16) Trí tuệ biết đời vị lai không ngại.
    _ 17) Trí tuệ biết đời quá khứ không ngại.
    _ 18) Trí tuệ biết đời hiện tại không ngại.

    23. Năm đường : Trời, người, ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.

    24. Đại y vương: Thầy thuốc trị bịnh giỏi hơn các Thầy thuốc khác. Đức Phật hay tùy thuận căn cơ chúng sanh, khéo hóa độ, khiến xa lìa tất cả khổ não, như ông Thầy thuốc hay khéo tịi lành các bịnh nhơn nên gọi Phật là “Đại y vương”.

    25. Thi khí : Tên vị vua cõi trời Đại Phạm Thiên, ở từng trời thứ ba cõi sơ thiên của Sắc giới.

    26. Tứ thiên hạ: Bốn châu thiên hạ.
    _ 1) Đông thắng thần châu;
    _ 2) Nam thiệm bộ châu;
    _ 3) Tây ngưu hóa châu;
    _ 4) Bắc cu lô châu.

    27. Thiên, long thẩn v.v... : Tục gọi là Thiên, Long Bát bộ.
    _ 1) Thiên : chư Thiên ;
    _ 2) Long : là rồng ;
    _ 3) Dạ xoa : loài quỉ bay đi rất mau ;
    _ 4) Càn thát bà : thần âm nhạc ;
    _ 5) A tu la : thần chiến đấu. Tàu dịch là Phi thiên ; có phước như Trời mà đức kém hơn Trời ;
    _ 6) Ca lâu na : chim đại bàng ;
    _ 7) Khẩn na la : thần pháp nhạc;.
    _ 8) Ma hầu la dà : thần mãng xà.

    28. Tỳ kheo : Tiếng Phạn “Bhiksu”, các thầy xuất gia thọ giới cụ túc (thọ 250 giới của Phật). Đàn ông gọi là Tỳ kheo, còn đàn bà gọi là Tỳ kheo ni (Thọ 350 giới).

    29. Ưu bà tắc : Tàu dịch là cận sự nam. Cận sự : nghĩa là thường thân cận cúng dường ủng hộ các bực xuất gia tu hành, tức là chỉ những người tại gia cư sĩ bên nam giới.

    30. Ưu bà di : Tàu dịch là cận sự nữ tức là nữ cư sĩ.




    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

  13. #10
    Ban Điều Hành Avatar của Thanh Trúc
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    1.200
    Thanks
    812
    Thanked 1.149 Times in 450 Posts


    31. Tòa sư tử : Pháp tòa của Phật ; Phật ngồi chỗ nào thuyết pháp, thời chỗ ấy gọi là “tòa sư tử”; vì Phật tự tại vô úy hàng phục được tất cả các ngoại đạo nên lấy sư tử làm ví dụ .

    32. Trưởng giả tử : con ông Trưởng giả. Trưởng giả là người vừa có của cải, vừa có đức hạnh đầy đủ. Kinh Pháp Hoa Huyền Tán quyển 10 nói : “Tâm tánh ngay thẳng, lời lẽ chơn thật, hành vi thuần cẩn, tuổi tác già cả, của cải giàu có gọi là Trưởng giả.”

    33. Bảy báu : Vàng, Bạc, Lưu ly, Pha lê, Xa cừ, Xích châu, Mã não.

    34. Tam thiên Đại thiên thế giới : Một thái dương hệ tương đương với một tiểu thế giới; một ngàn tiểu thế giớì, là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Vậy đại thiên thế glới là một thế giới trải qua ba lần nhơn cho số ngàn, nên gọi là “Tam thiên Đại thiên thế giới”.

    35. Dùng tích độ chúng : Tức dùng đạo lý Niết bàn tịch diệt dứt trừ tất cả nghiệp chướng khổ lụy để độ chúng sanh.

    36. Đệ nhứt nghĩa : Tượng trưng chơn lý cứu cánh, thật tánh các pháp; trên hết tất cả là “đệ nhứt”, có lý do như thật gọi là “nghĩa”. Cảnh giới của bậc tự giác thánh trí chứng đặng. Chẳng phải hạng dùng ngôn thuyết vọng tưởng so lường biết được. Trong kinh Pháp Hoa nghĩa sớ quyển 4 nói : “Cái đạo nhứt thật, lý cùng tột không chi hơn là “đệ nhứt””. Có nguyên do như thật gọi là “Nghĩa”.

    37. Phật thọ : Tức là cội bồ đề; chỗ Phật thành đạo ở dưới cội cây này gọi là Phật thọ, Đạo thọ hay là Bồ đề thọ.

    38. Cam lồ diệt : Cam lồ dụ cho Niết bàn; chứng đặng Niết bàn, dứt dòng sanh tử, gọi là “Cam lồ diệt”.

    39. Không tâm ý, không thọ hành: Là không còn tâm niệm vọng tưởng phân biệt và tâm cảm giác xúc thọ, thi vi động tác.

    40. Ba lần chuyển pháp : Tức tam chuyển pháp luân. Khi đức Phật Thích Ca mới thành đạo, nói pháp tứ đế cho 5 thấy Tỳ Kheo ở vườn Lộc Uyển, ba phen nói thành mười hai hành... Pháp của Phật dạy hay dẹp trừ phiền não của chúng sanh, như bánh xe hay cán dẹp cỏ rác, cát, sạn, nên gọi là Pháp luân. Người nói giáo pháp để chuyển tâm ô nhiểm của chúng sanh thành tâm thanh tịnh gọi là “Chuyển pháp luân”. Lại có nghĩa là chuyển ba món : hoặc, nghiệp, khổ trở thành ba đức: Bát nhã, Giải thoát, Pháp thân gọi là ba lần chuyển pháp.

    41. Pháp hải: Biển pháp. Phật pháp rộng lớn khó lường ví như bể cả.

    42. Nhơn bảo : Phật là đấng báu quí hơn hết trong cõi trời và cõi người .

    43. Tam giới tôn : Đức Phật là đấng cao cả đầy đủ phước đức hơn hết trong 3 cõi, tất cả nhơn thiên đều cung kính tôn trọng nên gọi là “Tam giới tôn”.

    44. Pháp bát cộng : cũng như thập bát bất cộng, có giải ở số 22.

    45. Đạo sư : Bậc dắt dẫn chúng sanh đi vào chánh đạo; tên chung của Phật và Bồ Tát.

    46. Kiết phược : Các phiền não ràng buộc thân tâm làm cho không được tự tại giải thoát, nên phiền não cũng gọi là “kiết phược”.

    47. Không tịch: Không các tướng là “Không”. Không khởi diệt là “tịch”. Rổng rang xa lìa tất cả tướng, không tâm niệm khởi diệt gọi là hạnh “không tịch”.

    48. Pháp tướng : Tướng trạng sai khác của các pháp trong vũ trụ. Sách Đại Thừa nghĩa chương quyển 2 nói : “Tất cả pháp hữu vi, vô vi trong thế gian đều gọi là pháp tướng”.

    49. Trực tâm : Tâm chơn thật, không dua dối tà vạy; tâm chánh niệm chơn như.

    50. Thâm tâm : Tâm mong cầu Phật quả cao thâm; tâm ưa muốn nhóm góp gieo trồng tất cả công đức cao dày, bền chắc, không thể dứt mất.



    Suốt ngày gặt lúa trên đồng,
    mà trong kho lẫm vẫn không có gì.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 2 người đọc bài này. (0 thành viên và 2 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •