Ngưu Bàng (Arctium lappa L.)
Tiếng Nhật: Gobo
Tiếng Anh: Burdock
Tiếng Việt-Hán: Ngưu Bàng, Ngưu Bảng hoặc Ngưu Báng
Ngưu Bàng thuộc họ Cúc (Asteraceae)
Người Việt Nam tại Úc châu đặt tên Gobo là Ngưu Báng (Canh dưỡng sinh,Trần Anh Kiệt, 2003), nhưng ở Việt Nam, dân ta đã dùng nó từ lâu và gọi là Ngưu Bàng (Bộ Y Tế, 1978; Võ Văn Chi & Trần Hợp, 1999). Mặc dù có rất nhiều từ Hán Việt trong tiếng Việt Nam, nhưng chúng tôi thiển nghĩ hễ từ nào ông cha ta đã Việt Nam hoá thì nên dùng từ đó cho thống nhất với người trong nước. Do vậy chúng tôi xin được dùng từ Ngưu Bàng thay vì Ngưu Báng.
1. Thành phần dược liệu:
Trong củ ngưu bàng có chứa nhiều chất Inulin và Chất sợi. Inulin là một protein dưới dạng đường có công dụng cung cấp năng lượng và chỉnh lý cơ năng của ruột và thận. Chất sợi giúp sự tiêu hoá được bình thường nên trị được bệnh táo bón. Củ ngưu bàng có chứa Calcium, Sodium, Anti-allergy và đặc biệt nhất là củ và lá ngưu bàng có chứa chất chát antioxydant được dùng làm thuốc ngăn ngừa ung thư, hạ cholesterol, trị tiêu đàm, cầm máu. Hạt ngưu bàng chứa tinh dầu có thể giải độc, lợi tiểu. Ngưu bàng còn có chứa chất Aruginin là một sex-hormone có công dụng thúc đẩy và tăng cường hoạt động về sinh dục (Morishita, 1986).
Vỏ của củ ngưu bàng chứa nhiều hoạt chất kể cả hoạt chất có mùi thơm như Akutin acid cho nên không nên gọt bỏ vỏ mà chỉ rửa nhẹ cho sạch đất cát thôi.
2. Công dụng:
Ở Nhật Bản, củ ngưu bàng được sử dụng như rau ăn mỗi ngày. Ðây là một loại rau thuộc nhóm 'rau thuốc' vì ngưu bàng được dùng để giúp trị bệnh táo bón, bí tiểu tiện, tẩy máu, giải độc, thoát mồ hôi, cường tinh, giúp ngăn ngừa bệnh ung thư tử cung, ung thư gan, thận và ruột.
Ở Việt Nam, dân ta tuy không dùng ngưu bàng để làm rau ăn như người Nhật nhưng cũng đã biết sử dụng cây này để làm thuốc từ lâu (Võ Văn Chi & Trần Hợp, 1999). Lá ngưu bàng tươi giã đắp trị nọc độc rắn cắn, đắp trị bệnh về phổi mạn tính, cúm kéo dài. Hạt ngưu bàng chữa phong lở, mày đay, bụng sình, lợi tiểu, giải nhiệt, phù thủng, đau họng, sưng họng, phế viêm, cảm cúm, tinh hồng nhiệt. Ðối với mụn nhọt đã có mủ và viêm tuyến lâm ba, ngưu bàng có tác dụng thúc mủ nhanh, với đậu mùa cũng làm cho chóng mọc. Củ ngưu bàng dùng làm thuốc thông tiểu tiện, ra mồ hôi, tẩy máu, chữa tê thấp, đau và sưng khớp, mụn nhọt, áp xe, bệnh nấm da, hắc lào, eczema, viêm hạch, vết thương có mủ.
3. Cách trồng:
Ở Nhật, giống ngưu bàng làm rau ăn phải được trồng ở đất xốp có độ dày sâu khoảng 1m để củ phát triển tốt, không chia nhánh. Tùy theo mùa, củ ngưu bàng được thu hoạch sau 3-5 tháng trồng. Vào khoảng tuổi này, củ có đường kính khoảng 1.5-2.5cm, dài khoảng 60-100cm, có mùi thơm như sâm, củ tuy cứng nhưng vẫn còn dễ cắt gọt, xào nấu.
Ngưu bàng làm thuốc thường ở dạng khô. Trong trường hợp này, cây ngưu bàng thường được trồng lâu hơn, có khi cả năm nên củ hóa mọc, cứng như gỗ, lõi củ phát triển phần xốp (phythiness) hoặc nức dọc thành khoảng hổng ở trung tâm củ. Củ ngưu bàng ở độ tuổi này thường ít có mùi thơm và không sử dụng như thức ăn vì quá cứng, chỉ dùng làm thuốc. Thành phần dược liệu trong củ non (3-5 tháng tuổi) và già (1 năm tuổi) không rõ có khác nhau hay không, nhưng năng suất của củ già bao giờ cũng cao hơn củ non.
Chi tiết về phương pháp sản xuất đại trà củ ngưu bàng làm thức ăn có thể tham khảo thêm ở tài liệu 4 & 5 (Nguyen Q.V., 1992 và Nguyen Vong Q., 1998).
4. Cách dùng:
4.1. Dùng như rau:
Chỉ dùng củ ngưu bàng để làm rau ăn. Củ ngưu bàng khi xắt lát hoặc xắt thành sợi mỏng, gặp không khí sẽ bị hoá màu từ trắng nõn sang nâu đen. Nguyên nhân của sự hoá màu này là do tanin và chất chát trong củ gặp không khí bị oxít hoá mà ra. Sự oxit hoá này không gây độc. Tuy nhiên để lát hoặc sợi ngưu bàng được trắng trẻo đẹp đẽ, ngay sau khi xắt phải ngâm ngưu bàng ngay trong nước cho đến lúc xào nấu. Người Nhật dùng ngưu bàng để nấu nhiều món ăn, chủ yếu có những món sau:
a) Món Tonjiru: Ngưu bàng, củ cải, nấm đông cô (có hoặc không cà rốt) hầm nhừ thịt heo với tương đậu nành 'miso'.
b) Món Kenjiru: Như món 'tonjiru' nhưng dùng thịt gà thay vì thịt heo nên mớI gọI là 'kenjiru'.
c) Món Kimpira gobo: Ngưu bàng xắt sợi như 'chip' của khoai tây chiên nhưng chỉ nhỏ bằng 1/4, xào chung với cà rốt cũng xắt nhỏ như vậy bằng soysauce. Trước khi ăn có thể rắc một ít mè.
d) Món Tataki gobo: Ngưu bàng xắt sợi nhỏ, chần nhẹ xong trộn với xà lách, tưới dầu dấm trước khi ăn.
e) Món Cơm gobo: Ngưu bàng xắt lát mỏng, trộn đều với nấm đông cô, cà rốt và gạo xong nêm xì dầu... xong nấu thành cơm gobo.
4.2. Dùng như thuốc:
a) Ghẻ ngứa: Xắt lá tươi hoặc lá khô để vào trong bồn nước xong ngâm toàn thân trong bồn như tắm.
b) Sưng nướu răng, đau cổ họng: 5-10g rễ hoặc lá, 1 ly nước (200ml) nấu còn nửa ly, để ngui súc miệng.
c) Phong ngứa, côn trùng cắn chích, cầm máu lúc bị thương: vò lá tươi đắp vào vết thương hoặc cũng dùng dung dịch (a) ở trên mà thoa. Có cách dùng khác là ngâm lá tươi trong rượu (10g lá, 100ml rượu) trong một tuần lễ, sau đó thoa lên chỗ ngứa.
d) Bệnh trĩ, ra máu hậu môn: Nấu lá và rễ ở độ đậm hơn trên, để nguội khoảng 39-40 độ, ngâm mình vào dung dịch 3-5 phút.
e) Táo bón: Dùng củ ngưu bàng làm thực phẩm như nấu canh, muối dưa, nấu chín với dạng kho lạt, lăn bột chiên. (Cách nấu nướng giống như củ cải, carrot v.v..).
5. Thị trường:
Ở Nhật Bản, ngưu bàng rất phổ biến, được sử dụng như một loại rau đầy dinh dưỡng. Vào năm 1999, Nhật Bản sản xuất 203,800 tấn củ Gobo trên 11,400 mẫu tây. Cùng năm, Nhật nhập khẩu 80,000 tấn Gobo chủ yếu từ Trung Quốc.
Từ năm 1990 Việt Nam có trồng thử Gobo ở đồng bằng sông Hồng để xuất khẩu sang Nhật nhưng chưa thấy sử dụng một cách phổ biến trong dân gian.
Ở Sydney, Úc châu, củ ngưu bàng có bán dưới dạng tươi, đông lạnh hoặc khô. Có thể thưởng thức các món ăn ngưu bàng như món Kimpera-Gobo, món xúp Tonjiru, Gobo-Tempura ở các tiệm ăn Nhật Bản.
Gần đây củ ngưu bàng còn được người Việt Nam ở Úc châu sử dụng như thuốc (gồm ngưu bàng, củ cải, lá củ cải, nấm đông cô và cà rốt gọi là canh dưỡng sinh, Trần Anh Kiệt, 2003). Canh dưỡng sinh này do một nhà nghiên cứu Nhật Bản; ông Tate-Ishi Kazu giới thiệu và phổ biến vào năm 1994.