Con ở đời xấu ác,
Tinh cần tu nhẫn nhục,
Đối trị mọi kết sử,
Cùng với giặc phiền não,
Cứu vớt cho vô lượng,
Hết thảy mọi chúng sinh,
Khiến cho được trụ yên,
Trong đạo mầu tịch diệt.
“Thiện nam tử! Sau khi Phạm-chí Bảo Hải đọc kệ xưng tán Phật rồi, hết thảy đại chúng đều ngợi khen tán thán rằng: ‘Lành thay, lành thay! Bậc đại trượng phu thật khéo biết xưng tán đấng Như Lai Pháp vương.’
“Bấy giờ, Phạm-chí Bảo Hải bạch Phật: ‘Bạch Thế Tôn! Nay con đã giáo hóa vô lượng ức chúng sinh khiến cho đều phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những chúng sinh này thảy đều phát nguyện nhận lấy cõi thế giới thanh tịnh nhiệm mầu, lìa xa những cõi thế giới không thanh tịnh; dùng tâm thanh tịnh để trồng các căn lành; khéo thâu nhiếp và điều phục các chúng sinh. Trong nhóm của ông Hỏa Man có một ngàn lẻ bốn người đều đã từng tụng đọc kinh sách Tỳ-đà của ngoại đạo, Như Lai cũng đều đã thọ ký cho những người này vào Hiền kiếp sẽ được thành Phật.
“Có những chúng sinh thường làm các việc tham dâm, sân si, kiêu mạn, thảy đều sẽ được điều phục bằng giáo pháp Ba thừa.
“Lại có những chúng sinh mà một ngàn lẻ bốn vị Phật ấy cũng đành buông bỏ. Đó là những chúng sinh phiền não sâu nặng, ở trong đời có năm sự uế trược mà phạm năm tội nghịch, hủy hoại chánh pháp, ......
Trâu ngoan không dẫm lúa mạ
phỉ báng các bậc thánh nhân, làm theo tà kiến, lìa xa bảy món tài bảo của bậc thánh, bất hiếu với cha mẹ, đối với các bậc tu hành không có lòng cung kính; thường làm những việc chẳng nên làm, việc nên làm lại chẳng làm; không làm việc phước, không sợ quả báo đời sau; với Ba điều phúc không khởi tâm muốn làm; chẳng cầu được quả báo trong hai cõi trời, người; thường làm mười điều ác, ngập chìm trong tham lam, sân hận và si mê; lìa xa các bậc thiện tri thức, không biết thân cận với người có trí huệ chân thật; lăn lóc trong ba cõi, giam hãm giữa ngục tù sanh tử, trôi chảy theo bốn dòng nước xoáy, chìm sâu trong dòng sông phiền não; do ngu si mà thành mù quáng không nhìn thấy, lìa bỏ nghiệp lành, chỉ gây toàn các nghiệp ác.
“Những chúng sinh như vậy, các cõi Phật đều không dung nạp, cho nên bị nghiệp lực xô đẩy mà tụ tập đến cõi thế giới này. Vì lìa xa các nghiệp lành, chỉ tạo toàn các nghiệp ác, việc làm đều theo tà đạo, nên những tội nặng đã chồng chất như núi lớn!
“Bấy giờ nơi thế giới Ta-bà, con người vào Hiền kiếp có tuổi thọ là một ngàn tuổi, một ngàn lẻ bốn vị Phật kia phát tâm đại bi chưa trọn, không nhận lấy cõi thế giới xấu ác như vậy, khiến cho chúng sinh phải trôi lăn trong sinh tử như bị cuốn trong guồng trục, chẳng có ai cứu giúp, bảo vệ; chẳng có ai để nương dựa, noi theo; không nơi trú ẩn, không ánh sáng soi đường. Những chúng sinh ấy phải nhận chịu mọi điều khổ não nhưng lại bị buông bỏ, vì mỗi vị Phật kia đều phát nguyện nhận lấy cõi thế giới thanh tịnh nhiệm mầu. Chúng sinh ở các cõi thế giới thanh tịnh thảy đều có thể khéo tự điều phục; tâm họ thanh tịnh, đã trồng các căn lành, lại chuyên cần tinh tấn tu tập, đã được cúng dường vô lượng chư Phật, nay lại được thâu nhận vào cõi Phật thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Những người phát nguyện như thế có phải là chân thật hay chăng?’
“Khi ấy, đức Thế Tôn liền bảo Phạm-chí Bảo Hải: ‘Quả đúng như lời ông nói! Thiện nam tử! Những người kia tùy theo chỗ mong muốn trong lòng mà đều phát nguyện nhận lấy những cõi thế giới có đủ mọi sự trang nghiêm thanh tịnh. Ta cũng tùy theo tâm nguyện của họ mà thọ ký cho được như vậy.’
Bấy giờ, Phạm-chí Bảo Hải lại bạch Phật: ‘Bạch Thế Tôn! Hiện nay tâm con xao động như trong lúc nguy khẩn bám lấy cành cây, trong lòng hết sức lo âu buồn khổ, thân thể tiều tụy.
Trâu ngoan không dẫm lúa mạ
Các vị Bồ Tát kia tuy sinh lòng đại bi nhưng không thể nhận lấy cõi thế giới xấu ác có năm sự uế trược, nên những chúng sinh nơi đây phải rơi vào chỗ tối tăm u ám!
“Bạch Thế Tôn! Cho đến đời vị lai, trải qua số a-tăng-kỳ kiếp nhiều như số cát sông Hằng, bước sang số a-tăng-kỳ kiếp lần thứ hai cũng nhiều như số cát sông Hằng, vào nửa sau của Hiền kiếp, tuổi thọ con người là một ngàn tuổi, con sẽ đợi đến khi ấy mà tu tập hành trì đạo Bồ Tát, ở lâu trong sinh tử, nhẫn chịu mọi điều khổ não. Nhờ vào sức tam-muội của Bồ Tát nên quyết sẽ không buông bỏ những chúng sinh như vậy.
“Bạch Thế Tôn! Nay con tự mình thực hành sáu pháp ba-la-mật để điều phục chúng sinh.
“Như lời Phật dạy, dùng tài vật để bố thí gọi là Bố thí ba-la-mật.
“Bạch Thế Tôn! Khi con thực hành pháp Bố thí ba-la-mật, nếu có chúng sinh đời đời theo con mà cầu xin các thứ cần dùng, con sẽ tùy theo chỗ cần dùng mà cung cấp cho đầy đủ, từ món ăn thức uống, thuốc men, y phục, giường ghế, nhà cửa xóm ấp, hương hoa, chuỗi ngọc; giúp cho người bệnh có đủ thuốc men, sự chăm sóc. Đối với những vật như cờ phướn, lọng che quý báu, tiền tài, lúa thóc, vải lụa, voi ngựa, xe cộ, vàng bạc, chân châu, lưu ly, pha lê, ngọc quý, ngọc bích, san hô, chân bảo cho đến các thứ nón mũ, đồ trang sức... con đều sinh lòng đại bi, đối với chúng sinh dẫu cho nghèo khó cũng mang ra bố thí hết. Tuy làm việc bố thí như vậy nhưng chẳng cầu được quả báo trong hai cõi trời, người, chỉ vì muốn thâu nhiếp điều phục chúng sinh mà thôi. Do nhân duyên ấy nên xả bỏ được hết thảy mọi sự sở hữu.
“Nếu có những chúng sinh cầu xin quá mức, chẳng hạn như nô tỳ, xóm làng, thành ấp, vợ con, chân tay, mũi lưỡi, đầu mắt, da xương, máu thịt, thân mạng... Cầu xin những thứ như vậy thật là quá đáng.
Trâu ngoan không dẫm lúa mạ
Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)