Có vị Tăng hỏi Sư: “Ý chỉ của Huỳnh Mai người nào được?”.
Sư đáp: “Người hiểu Phật pháp được”.
Hỏi: “Hòa Thượng có được chăng?”.
Đáp: “Ta chẳng hiểu Phật pháp”.
Một hôm, Sư muốn giặt cái y của Ngũ Tổ truyền thọ mà xung quanh không có suối tốt, nên đi đến cách sau chùa năm dặm, thấy có núi rừng xanh biếc, thoại khí vòng quanh (Thoại khí là triệu chứng tốt lành hiện trên không khí, nhưng phải là người có pháp nhãn mới thấy được). Sư dộng tích trượng xuống đất, nước suối ngay đó trào ra, chảy thành cái ao. Sư quỳ trên đá mà giặt y.
Có vị Tăng ở Tây Thục tên là Phương Biện đến lễ Sư, Sư hỏi: “Thượng Tọa làm nghề gì?”. Đáp: “Thợ đắp tượng”. Sư nghiêm mặt lại nói: “Ngươi thử đắp ta xem!”. Biện ngơ ngác, qua mấy ngày sau đắp xong chơn tượng, cao bảy tấc, nét mặt tánh tình đều tỏ bày khéo léo. Sư cười nói: “Ngươi khéo tánh đắp tượng mà chẳng hiểu tánh Phật”. Sư rờ đầu thọ ký, dặn phải làm phước điền cho trời người; rồi lấy y mà trả công. Biện chia y làm ba phần: một phần đắp lên pho tượng, một phần tự giữ lấy, một phần lấy lá cây kè gói lại, xong chôn dưới đất, nguyện rằng: “Cho tôi đời sau được y này, làm trụ trì nơi đây, xây dựng lại chùa chiền”.
Đến năm thứ tám, niên hiệu Gia Hựu đời Nhà Tống (1056 -1063, cách đó 380 năm), có vị Tăng tên là Duy Tiên đến đó tu sửa lại chùa chiền, đào đất được Y còn như mới. Pho tượng của Sư còn giữ ở chùa Cao Tuyền.
*
* *
Có vị Tăng đem bài kệ của Ngọa Luân Thiền Sư lập lại với Sư. Kệ rằng:
Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bá tư tưởng.
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ Đề nhựt nhựt trưởng.
Dịch nghĩa:
Ngọa Luân có bản lãnh,
Dứt được trăm tư tưởng.
Đối cảnh tâm chẳng khởi,
Bồ Đề luôn luôn trưởng.
Sư nghe nói xong: “Kệ này chưa rõ tâm địa, nếu theo đó mà tu hành thì lại thêm trói buộc”. Do đó khai thị một bài kệ:
Huệ Năng một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bá tư tưởng.
Đối cảnh tâm số khởi,
Bồ Đề tác ma trưởng.
Dịch nghĩa :
Huệ Năng không bản lãnh,
Chẳng dứt trăm tư tưởng.
Đối cảnh tâm cứ khởi,
Bồ Đề làm sao trưởng!
([1]) :Chớ nên chấp ở ngữ ngôn, Vô Ngôn : Phật thuyết pháp 49 năm mà tự nói chẳng thuyết một chữ
([2]) : Chớ nên chấp vào im lặng
([3]): Dê, nai, trâu = tiểu, trung, đại thừa
([4]): Ba đoạn thiện quét sạch : Mới phát thiện tâm là sơ thiện, chẳng chấp thiện tâm là trung thiện, không trụ nơi chẳng chấp là hậu thiện, luôn cả cái tri giải biết về sự “Không trụ nơi chẳng chấp” cũng tiêu là quét sạch.
([5]) : 62 kiến chấp: Tứ cú x ngũ uẩn = 20; 20 x tam tế = 60; 60 + thêm Hữu và Vô (Nguồn gốc của tất cả nhị biên đối đãi) = 62. Tất cả kiến chấp đều không ở ngoài 62 kiến chấp này.
([6]) : Nhị biên: Đối đãi biên kiến; tam tế : Quá khứ, hiện tại, vị lai.
([7]): Thường ứng các căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng:Thường ứng là tả sự dụng cuả tự tánh chẳng tác ý, như bóng hiện trong gương, luôn luôn như thế. Ví như dùng cơm chỉ là dùng cơm, chẳng có năng sở, nên nói “Thường ứng các căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng”. Còn “dụng tưởng” thì có tác ý, nên có năng sở, cho ta là năng dùng, cơm là sở dùng.
([8]): Phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng: Phân biệt tất cả pháp mà chẳng tác ý ví như cơm chỉ là cơm, nước chỉ là nước, còn “phân biệt tưởng” là có tác ý, nên có cơm ngon cơm dở, nước trong nước đục.

Trả lời với trích dẫn