Vô thượng Đại Niết Bàn,

Viên minh thường tịch chiếu.

Phàm phu vị chi tử,

Ngoại đạo chấp vi đoạn.

Chư cầu nhị thừa nhân,

Mục dĩ vi vô tác.

Tận thuộc tình sở kế,

Lục thập nhị kiến bản.

Vọng lập hư giả danh,

Hà vi chơn thật nghĩa.

Duy hữu quá lượng nhơn,

Thông đạt vô thủ xả.

Dĩ tri ngũ uẩn pháp,

Cập di uẩn trung ngã.

Ngoại hiện chúng sắc tượng,

Nhất nhất âm thanh tướng.

Bình đẳng như mộng huyễn,

Bất khởi phàm Thánh kiến.

Bất tác Niết Bàn giải,

Nhị biên tam tế đoạn.

Thường ứng chư căn dụng,

Nhi bất khởi dụng tưởng.

Phân biệt nhất thiết pháp,

Bất khởi phân biệt tưởng.

Kiếp hỏa thiêu hải để,

Phong cổ sơn tương kích.

Chơn thường tịch diệt lạc,

Niết Bàn tướng như thị.

Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,

Linh nhữ xả tà kiến.

Nhữ vật tùy ngôn giải,

Hứa nhữ tri thiểu phần.


Dịch nghĩa:

Vô thượng Đại Niết Bàn,

Sáng tròn thường tịch chiếu.

Phàm phu gọi là chết,

Ngoại đạo chấp đoạn diệt.

Những người tu Nhị thừa,

Cho đó là vô tác.

Thảy đều do tình thức,

Sáu mươi hai kiến chấp.([5])

Vọng lập tên hư giả,

Đâu phải nghĩa chơn thật.

Chỉ có người kiến tánh,

Thông đạt chẳng lấy bỏ.

Vì biết pháp ngũ uẩn,

Với cái ngã trong uẩn.

Cả hiện tượng thế giới,

Mỗi sắc tướng âm thanh.

Bình đẳng như mộng huyễn,

Chẳng phân biệt thánh phàm.

Chẳng cho là Niết Bàn,

Nhị biên ([6]) tam tế dứt.

Thường ứng các căn dụng ([7]),

Mà chẳng khởi dụng tưởng.

Phân biệt tất cả pháp ([8]),

Chẳng khởi phân biệt tưởng.

Niết Bàn vốn phi vật,

Lửa gió đụng chẳng được.

Chơn vui thường tịch diệt,

Tướng Niết Bàn như thế.

Nay ta gượng nói ra,

Khiến người bỏ tà kiến.

Chớ hiểu theo lời nói,

Mới cho biết ít phần.


Chí Đạo nghe xong đại ngộ, vui mừng đảnh lễ lui ra.