DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 2/6 ĐầuĐầu 1234 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 11 tới 20 của 58

Chủ đề: Kinh Pháp Bảo Đàn

  1. #11
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Huệ Năng đến Tào Khê, bị bọn ác tìm theo, nên phải lánh nạn trong đám thợ săn nơi Tứ Hội, trải qua mười lăm năm, thường vì thợ săn tùy nghi thuyết pháp. Bọn họ bảo giữ lưới, mỗi khi thấy cầm thú lọt vào đều thả ra hết. Tới bữa ăn, gởi rau trong nồi thịt, có người hỏi thì trả lời: “Chỉ ăn rau luộc bên cạnh thịt mà thôi”.

    Một ngày kia nghĩ rằng: “Đã đến lúc phải hoằng pháp không nên ẩn hoài”, liền ra chùa Pháp Tánh Quảng Châu, gặp Ấn Tông Pháp Sư giảng Kinh Niết Bàn. Có hai vị Tăng tranh luận về nghĩa “gió và lá phướn”; kẻ nói gió động, người nói phướn động, tranh cãi không ngừng, Huệ Năng chen vào nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà tâm các ông động”.Cả chúng đều ngạc nhiên. Ấn Tông mời Năng ra ngồi trên cao tòa, hỏi những nghĩa lý thâm sâu, thấy Huệ Năng lời gọn mà đúng lý, chẳng do văn tự. Ấn Tông nói: “Hành giả ắt chẳng phải người thường, lâu nay đã nghe Y Pháp Huỳnh Mai về Nam, có phải là hành giả chăng?

    Huệ Năng nói “Không dám”.

    Ấn Tông liền đảnh lễ, xin thỉnh Y Bát ra cho đại chúng xem.

    Ấn Tông hỏi rằng: “Sự phó chúc của Huỳnh Mai truyền thọ như thế nào ?”

    Huệ Năng nói: “Truyền thọ thì không, chỉ cần kiến tánh, chẳng cần thiền định giải thoát”.

    Ấn Tông hỏi: “Tại sao chẳng cần thiền định giải thoát?”

    Đáp: “Vì đó là nhị pháp, chẳng phải Phật Pháp, Phật Pháp là pháp bất nhị”.

    Ấn Tông lại hỏi: “Thế nào là Pháp Bất Nhị của Phật Pháp?”

    Đáp: “Pháp Sư giảng Kinh Niết Bàn, đã rõ Phật tánh là Pháp Bất Nhị của Phật Pháp! Như trong Kinh Niết Bàn nói: “Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: Phạm tứ trọng cấm (bốn giới trọng nhất trong giới Tỳ kheo, giống như người thế gian phạm tội tử hình), làm tội ngũ nghịch và nhất xiển đề, phải bị đoạn dứt thiện căn Phật tánh không? Phật nói: Thiện căn có hai, một là thường, hai là vô thường, Phật tánh phi thường phi vô thường, nên chẳng đoạn dứt gọi là bất nhị. Một là thiện, hai là bất thiện, Phật tánh phi thiện, phi bất thiện, gọi là bất nhị. Uẩn và Giới, phàm phu thấy cho là nhị, người trí liễu đạt thì biết tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là Phật tánh vậy”.

    Ấn Tông nghe xong hoan hỷ chấp tay rằng: “Tôi giảng kinh như gạch nát ngói bể, ông giảng nghĩa cũng như vàng ròng”

    Do đó, vì Huệ Năng xuống tóc, nguyện thờ làm Thầy.

    Huệ Năng bèn ở nơi gốc cây Bồ Đề khai giảng pháp môn Đông Sơn (Ngũ Tổ): “Huệ Năng đắc pháp nơi Đông Sơn, chịu nhiều cay đắng, gặp nhiều nguy hiểm, tánh mạng tựa như chỉ mành, hôm nay được cùng các quan, các Tăng Ni đạo tục đồng tụ tại hội này, là do quá khứ nhiều kiếp cúng dường chư Phật, cùng gieo thiện căn mới được nghe cái nhơn đắc pháp và pháp Đốn Giáo kể trên. Giáo pháp là do bậc Thánh xưa truyền lại, chẳng phải tự trí của Huệ Năng. Người muốn nghe giáo pháp của bậc Thánh xưa, phải làm cho tâm thanh tịnh (trong sạch), nghe rồi phải tự đoạn trừ nguồn gốc nghi ngờ giống như các bậc Thánh xưa chẳng có khác biệt”.

    Đại chúng nghe pháp xong hoan hỷ đảnh lễ lui ra.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  2. #12
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm Bát Nhã Thứ Hai



    Qua ngày sau, Vi Sử Quân lại xin giảng nữa, Sư thăng tòa bảo đại chúng rằng: “Cần phải tĩnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Lại nói: “Thiện tri thứ, trí Bồ Đề Bát Nhã của chúng sanh vốn tự có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ đại thiện tri thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh. Phải biết Phật tánh của kẻ ngu người trí vốn chẳng sai biệt, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, nên mới có kẻ ngu người trí. Nay ta thuyết Pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, khiến cho mọi người đều được trí huệ, hãy chú tâm nghe.

    “Thiện tri thức, người đời suốt ngày miệng niệm BÁT NHÃ, chẳng nhận được TỰ TÁNH BÁT NHÃ, cũng như nói ăn mà không ăn thì chẳng no, miệng chỉ thuyết “KHÔNG”, muôn kiếp chẳng được KIẾN TÁNH, rốt cuộc vô ích.

    Thiện tri thức, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng Phạn, dịch là Đại Trí Huệ đến bờ bên kia, đây cần phải tâm hành, chẳng phải ở miệng niệm, miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hóa. Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật.

    Sao gọi là Ma Ha? Ma Ha là đại, tâm lượng quảng đại như hư không, chẳng có biên giới cũng chẳng có vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng chẳng trên dưới dài ngắn, cũng chẳng giận, chẳng vui, chẳng phải chẳng quấy, chẳng thiện chẳng ác, chẳng đầu chẳng đuôi.

    Các cõi Phật đều đồng như hư không, diệu tánh con người vốn không, chẳng có một pháp có thể đắc, tự tánh chơn không cũng như thế.

    Thiện tri thứ, chớ nên nghe ta nói “KHÔNG” mà liền chấp “KHÔNG”. Trước nhất chớ chấp “KHÔNG”, nếu để tâm “KHÔNG” tĩnh tọa là lọt vào “VÔ KÝ KHÔNG”.

    Thiện tri thức, thế giới hư không bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời, mặt trăng, núi sông, đất đai, cây cối, biển lớn, kẻ dữ người lành, pháp ác pháp thiện, thiên đàng địa ngục, tất cả đều ở trong hư không, “TÁNH KHÔNG” của con người cũng vậy.

    Thiện tri thức, tự tánh hay bao hàm muôn pháp là ĐẠI, muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người. Nếu thấy điều dữ điều lành của người, tất cả đều chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như hư không gọi là ĐẠI, nên nói là MA HA.

    Thiện tri thức, kẻ mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có kẻ mê để tâm “không” mà tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, với bọn người này không thể nói gì được, vì họ bị rơi vào tà kiến.

    Thiện tri thức, tâm lượng quảng đại cùng khắp pháp giới, dùng thì liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại tức là BÁT NHÃ.

    Thiện tri thức, tất cả TRÍ BÁT NHÃ đều từ tự tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dùng ý thức, gọi là chơn tánh tự dụng.

    Nhất chơn nhất thiết chơn, tâm lượng là việc lớn, chẳng nên hành đạo nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói “không” mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giống như thường dân tự xưng là vua thì không được, hạng người này chẳng phải đệ tử của ta.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  3. #13
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Thiện tri thức, sao gọi là BÁT NHÃ? BÁT NHÃ dịch là trí huệ. Bất cứ nơi nào lúc nào, niệm niệm chẳng ngu muội (chẳng chấp thật), thường hành đúng trí huệ, tức là hạnh BÁT NHÃ một niệm ngu muội, chấp thật thì BÁT NHÃ tuyệt, một niệm trí huệ thì BÁT NHÃ sanh. Con người ngu mê chẳng thấy BÁT NHÃ, miệng nói BÁT NHÃ mà trong tâm thường ngu muội, tự nói ta tu BÁT NHÃ, niệm niệm nói “KHÔNG” mà chẳng biết “CHƠN KHÔNG”. BÁT NHÃ không hình tướng, ấy là tâm trí huệ, nếu hiểu thấu như thế gọi là TRÍ BÁT NHÃ.

    Sao gọi là Ba La Mật? Ba La Mật là tiếng Ấn Độ, dịch là đến bờ bên kia, nghĩa là lìa sanh diệt. Chấp cảnh thì sanh diệt dấy lên như nước nổi làn sóng, tức gọi bờ bên này, lìa cảnh thì chẳng sanh diệt như nước chảy im lìm, tức là bờ bên kia, nên gọi là Ba La Mật.

    Thiện tri thức, kẻ mê miệng niệm, đang trong lúc niệm có vọng có sai, niệm niệm nếu hành gọi là chơn tánh. Kẻ ngộ pháp này là PHÁP BÁT NHÃ, kẻ tu hạnh này là HẠNH BÁT NHÃ, chẳng tu tức là phàm phu, một niệm tu hành, tự thân bằng Phật.

    Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sao ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh, tức phiền nảo, niệm sau lìa cảnh tức Bồ Đề. Thiện tri thức! MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT, tối cao tối thượng tối đệ nhất, không trụ không đi cũng không đến, tam thế chư Phật từ đó ra. Cần phải dùng ĐẠI TRÍ HUỆ, phá ngũ uẩn phiền não trần lao, tu hành như thế, nhất định thành Phật, đổi TAM ĐỘC thành GIỚI, ĐỊNH, HUỆ.

    Thiện tri thức, pháp môn này từ một BÁT NHÃ mà sanh ra tám mươi bốn ngàn trí huệ. Tại sao vậy? Vì con người có tám mươi bốn ngàn trần lao, nếu không có trần lao thì trí huệ luôn luôn hiển hiện, chẳng lìa tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vô niệm vô ức (không ghi nhớ), vô nhiễm trước, chẳng khởi cuồng vọng. Đối với tất cả pháp, dùng trí huệ của chơn như tự tánh chiếu soi, chẳng lấy chẳng bỏ, tức là KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT.

    Thiện tri thức, muốn đi vào pháp giới thâm sâu và BÁT NHÃ TAM MUỘI, phải tu hạnh BÁT NHÃ, thực hành theo Kinh Kim Cang thì sẽ được KIẾN TÁNH. Phải biết cái công đức của kinh này vô lượng vô biên, trong kinh rõ ràng tán thán, chẳng thể kể xiết. Pháp môn này là TỐI THƯỢNG THỪA, vì người đại trí mà thuyết, vì người thượng căn mà thuyết, kẻ căn khí nhỏ nghe được khó tin. Tại sao vậy? Ví như trận mưa bão lụt thành thị nông thôn đều bị cuốn trôi như cỏ lá, nếu mưa bão trong biển lớn thì chẳng thêm chẳng bớt: Như người thượng thừa, người Tối Thượng Thừa nghe được Kinh Kim Cang, tâm liền khai ngộ. Nên biết tự tánh vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ, trí huệ tự tánh thường chiếu soi nên chẳng nhờ văn tự, ví như nước mưa, chẳng do trời có mà khí trời làm nên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cây cối, hữu tình vô tình, đều được thấm nhuần, tất cả sông ngòi đều chảy về biển lớn, hợp thành nhất thể. Cái TRÍ TỰ TÁNH BÁT NHÃ của chúng sanh cũng vậy. Thiện tri thức, kẻ tiểu căn nghe được PHÁP MÔN ĐỐN GIÁO này, cũng như cây cỏ mà gặp mưa bão, đều tự gãy đổ chẳng sanh trưởng được, kẻ tiểu căn thì cũng như vậy: họ vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ đồng với người đại trí, chẳng có khác biệt, tại sao nghe pháp mà chẳng được tự ngộ? Đó là do tà kiến chướng nặng, phiền não căn sâu, cũng như mây lớn che khuất mặt trời, chẳng được gió thổi nên chẳng hiện ánh sáng.

    CÁI TRÍ của BÁT NHÃ vốn chẳng lớn nhỏ, chỉ vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng, tâm mê tu hành hướng ngoại tìm Phật mà chưa ngộ tự tánh, tức là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo chẳng chấp lấy hình tướng bên ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường chẳng ô nhiễm, tức là KIẾN TÁNH.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  4. #14
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Thiện tri thức, trong ngoài chẳng trụ, đi lại tự do, nếu trừ được chấp tâm thì thông đạt vô ngại. Nếu tu được hạnh này, với kinh BÁT NHÃ vốn chẳng sai biệt. Thiện tri thức, tất cả kinh điển và văn tự, đại tiểu nhị thừa, mười hai bộ kinh đều do người đặt ra, vì có tánh trí huệ mới được kiến lập; nếu chẳng có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có. Nên biết vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo, tất cả kinh sách là vì con người mà nói. Vì trong con người có kẻ ngu người trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại nhơn, kẻ ngu hỏi pháp với người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ ngu, kẻ ngu đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người trí vậy.

    Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật là chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ thì chúng sanh tức Phật, Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm, vậy sao chẳng ở trong tự tâm đốn thấy chơn như bản tánh? Kinh Phạm Võng nói: “Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu nhận được tự tâm, thấy được bản tánh, tức thành Phật đạo”. Kinh Duy Ma Cật nói: “Ngay lúc đó hoát nhiên đốn ngộ, liền được bổn tâm”. Thiện tri thức, ta ở nơi Hòa Thượng Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền ngộ, đốn thấy chơn như bản tánh, cho nên hoằng dương giáo pháp này, khiến hành giả đốn ngộ Bồ Đề, mọi người tự thấy bổn tâm, tự kiến tánh, nếu chẳng tự ngộ, phải tìm người đã khai ngộ pháp Tối Thượng Thừa, chỉ ngay đường lối CHÁNH PHÁP, vì thiện tri thức có nhân duyên lớn giáo hóa dẫn dắt, khiến hành giả được KIẾN TÁNH, tất cả thiện pháp đều do thiện tri thức mà được kiến lập.

    Tam thế chư Phật, mười hai bộ kinh ở trong tự tánh vốn đã đầy đủ, vì tự ngộ chẳng được, nên phải nhờ Thiện tri thức chỉ ra mới thấy, kẻ tự ngộ thì chẳng phải nhờ đến người khác. Nếu cố chấp rằng phải luôn luôn ỷ lại Thiện tri thức mới mong được giải thoát thì không bao giờ được. Tại sao vậy? Vì ở trong tự tâm sẵn có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà kiến mê chấp vọng tưởng, điên đảo, dẫu cho gặp thiện tri thức dạy bảo cũng chẳng cứu được. Nếu khởi chơn chánh BÁT NHÃ tham cứu, trong một sát na vọng tưởng đều tiêu, nhận được tự tánh, đốn siêu Phật địa.

    Thiện tri thức, dùng trí huệ chiếu soi, trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được bổn tâm. Nếu nhận được bổn tâm tức vốn là giải thoát, được giải thoát tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, BÁT NHÃ TAM MUỘI tức là VÔ NIỆM. Sao gọi là VÔ NIỆM? Nếu thấy tất cả pháp tâm không nhiễm trước gọi là VÔ NIỆM, dùng thì khắp nơi, cũng chẳng dính mắc ở khắp nơi, hễ sạch được bổn tâm, khiến lục thức ra cửa lục căn, đối với lục trần mà chẳng nhiễm chẳng trước, đi lại tự do, ứng dụng vô ngại tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, tự tại giải thoát gọi là hạnh VÔ NIỆM. Chứ chẳng phải như người lầm tưởng cho là “trăm điều chẳng nghĩ, chỉ cho niệm tuyệt”, ấy là pháp trói buộc, tức là biên kiến.

    Thiện tri thức, kẻ ngộ pháp VÔ NIỆM thông đạt vạn pháp, ngộ pháp VÔ NIỆM thấy được cảnh giới chư Phật, ngộ pháp VÔ NIỆM được đến địa vị Phật.

    Thiện tri thức, nếu người đời sao ngộ được pháp này, đem pháp môn đốn giáo này với những người đồng một chánh kiến, chánh hạnh phát nguyện cùng tu, như cúng dường Phật mà suốt đời chẳng thối lui, người ấy nhất định được vào Thánh vị. Nhưng phải truyền thọ, từ trước đến nay các Tổ đều mặc truyền tâm ấn, chẳng được ẩn giấu Chánh Pháp. Nếu chẳng phải đồng môn chánh kiến, chánh hạnh, là người đã ở trong pháp khác thì chẳng được truyền thọ, vì sợ kẻ ngu chẳng hiểu, lại sanh phỉ báng pháp môn này, phá hoại truyền thống CHÁNH PHÁP của Cổ đức, làm cho muôn ngàn kiếp sau đoạn dứt Phật chủng, cuối cùng vô ích.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  5. The Following User Says Thank You to minh thức For This Useful Post:

    sonha (12-29-2015)

  6. #15
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Thiện tri thức, nay ta có một bài VÔ TƯỚNG TỤNG, mọi người hãy tự giữ lấy, không kể xuất gia tại gia, nên y theo bài tụng mà tu hành, nếu chẳng tự tu mà chỉ ghi nhớ lời ta cũng chẳng lợi ích gì. Bài tụng rằng:

    Thuyết thông cập tâm thông,

    Như nhựt xử hư không.

    Duy truyền kiến tánh pháp,

    Xuất thế phá tà tông.

    Pháp tức vô đốn tiệm,

    Mê ngộ hữu trì tật.

    Chỉ thử kiến tánh môn,

    Ngu nhơn bất khả tất.

    Thuyết tức tuy vạn ban,

    Hợp lý huờn quy nhất.

    Phiền não ám trạch trung,

    Thường tu sanh huệ nhựt.

    Tà lai phiền não chí,

    Chánh lai phiền não trừ.

    Tà chánh câu bất dụng,

    Thanh tịnh chí vô dư.

    Bồ đề bổn tự tánh,

    Khởi tâm tức thị vọng.

    Tịnh tâm tại vọng trung,

    Đản chánh vô tam chướng.

    Thế nhơn nhược tu đạo,

    Nhất thiết tận bất phương.

    Thường kiến tự kỷ quá,

    Dữ đạo tất tương đương.

    Sắc loại tự hữu đạo,

    Các bất tương phương não.

    Ly đạo biệt mích đạo,

    Chung thân bất kiến đạo.

    Ba ba độ nhất sanh,

    Đáo đầu huờn tự áo.

    Dục đắc kiến chơn đạo,

    Hạnh chánh tức thị đạo.

    Tự nhược vô đạo tâm,

    Ám hành bất kiến đạo.

    Nhược chơn tu đạo nhơn,

    Bất kiến thế gian quá.

    Nhược kiến tha nhơn phi,

    Tự phi khước thị tả.

    Tha phi ngã bất phi,

    Ngã phi tự hữu quá.

    Đản tự khước phi tâm,

    Đả trừ phiền não phá.

    Tắng ái bất quan tâm,

    Trường thân lưỡng cước ngọa.

    Dục nghĩ hóa tha nhơn,

    Tự tu hữu phương tiện.

    Vật linh bỉ hữu nghi,

    Tức thị tự tánh hiện.

    Phật pháp tại thế gian,

    Bất ly thế gian giác.

    Ly thế mích bồ đề,

    Cáp như cầu thố giác.

    Chánh kiến danh xuất thế,

    Tà kiến danh thế gian.

    Tà chánh tận đã khước,

    Bồ đề tánh uyển nhiên.

    Thử tụng thị đốn giáo,

    Diệc danh đại pháp thiền.

    Mê văn kinh lũy kiếp,

    Ngộ tắc sát na gian.



    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  7. The Following User Says Thank You to minh thức For This Useful Post:

    sonha (12-29-2015)

  8. #16
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Dịch nghĩa:

    Thuyết thông lại Tâm thông,

    Như mặt trời giữa không.

    Chỉ truyền pháp kiến tánh,

    Hoằng pháp phá tà tông.

    Pháp vốn chẳng đốn tiệm,

    Mê ngộ có nhanh chậm.

    Pháp môn kiến tánh này,

    Kẻ ngu chẳng thể tri.

    Thuyết tuy muôn ngàn lối,

    Đúng lý chỉ là một.

    Nhà phiền não đen tối,

    Thường nên sanh huệ nhựt.

    Tà khởi phiền não tới,

    Chánh đến phiền não trừ.

    Tà chánh đều chẳng chấp,

    Thanh tịnh đến cùng tột.

    Tự tánh vốn Bồ Đề,

    Khởi tâm tức là vọng.

    Tịnh tâm ở trong vọng,

    Niệm chánh chẳng tam chướng.

    Người đời muốn tu đạo,

    Tất cả đều chẳng ngại.

    Thường tự thấy lỗi mình,

    Với đạo tức tương ưng.

    Muôn loài tự có đạo,

    Mỗi mỗi chẳng ngại nhau,

    Ngoài tâm đi tìm đạo,

    Suốt đời chẳng thấy đạo.

    Bôn ba qua một đời,

    Sau cùng tự áo não.

    Muốn được thấy chơn đạo,

    Hạnh chánh tức là đạo.

    Nếu tự chẳng đạo tâm,

    Đen tối chẳng thấy đạo.

    Nếu là người chơn tu,

    Chẳng thấy lỗi thế gian.

    Nếu thấy lỗi của người,

    Trái lại thành tự quấy.

    Người quấy ta chẳng quấy,

    Thấy quấy thành tự lỗi.

    Hễ bỏ tâm chấp quấy,

    Phiền não tự tan rã.

    Thương ghét chẳng quan tâm,

    Duỗi thẳng hai chân nằm

    Muốn hóa độ chúng sanh,(2)

    Tự phải có phương tiện.

    Khiến họ hết nghi ngờ,

    Tức là tự tánh hiện.

    Phật pháp tại thế gian,

    Chẳng rời thế gian giác.

    Lìa thế tìm Bồ Đề,

    Cũng như tìm sừng thỏ.

    Chánh kiến gọi xuất thế,

    Tà kiến gọi thế gian.

    Tà chánh đều quét sạch,

    Tánh Bồ Đề rõ ràng.

    Tụng này là đốn giáo,

    Cũng gọi đại pháp thiền.

    Lúc mê tu nhiều kiếp,

    Ngộ chỉ một sát na.

    Sư lại nói: “Nay ta ở chùa Đại Phạn thuyết pháp đốn giáo này, nguyện cho pháp giới chúng sanh nghe được pháp này liền kiến tánh thành Phật”. Lúc ấy Vi Sử Quân và tất cả quan chức, đạo tục nghe Sư thuyết pháp đều được tỉnh ngộ, đảnh lễ tán thán rằng: “Lành thay đâu ngờ xứ Lãnh Nam lại có Phật ra đời”.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  9. The Following 2 Users Say Thank You to minh thức For This Useful Post:

    hoatihon (12-28-2015),sonha (12-29-2015)

  10. #17
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm Nghi Vấn Thứ Ba


    Một hôm, Vi Sử Quân vì Sư thiết hội trai Tăng. Trai xong Sử Quân mời Sư thăng tòa, cùng với quan chức, dân chúng cung kính lễ bái, hỏi Sư:

    “Đệ tử nghe Hòa Thượng thuyết pháp, thật là bất khả tư nghì, nay có một ít nghi vấn, xin Hòa Thượng từ bi giải quyết cho”.

    Sư nói: “Có nghi cứ hỏi, ta giải đáp cho”.

    Sử Quân nói: “Cái Pháp mà Hòa Thượng giảng dạy, có phải là tông chỉ của Tổ Đạt Ma chăng?”.

    Sư đáp: “Phải”.

    Sử Quân nói: “Đệ tử nghe nói: Tổ Đạt Ma lúc mới gặp Lương Võ Đế, vua hỏi: Trẫm suốt đời xây chùa độ Tăng, trai Tăng bố thí, được công đức gì? Tổ Đạt Ma Đáp: Thật chẳng công đức. Đệ tử chưa hiểu lý này, xin Hòa Thượng chỉ dạy”.

    Sư nói: “Thật chẳng công đức. Chớ nghi lời của bậc Thánh xưa. Võ Đế tâm tà, chẳng biết Chánh Pháp. Xây chùa độ Tăng trai Tăng bố thí, ấy là cầu phước, chẳng thể đem cái phước ấy cho là công đức. Công đức ở trong Pháp thân, chẳng ở tại tu phước”.

    Sư lại nói tiếp: “ Kiến tánh là công, bình đẳng là đức, niệm niệm vô ngại, thường thấy cái diệu dụng chân thật của tự tánh gọi là công đức. Trong tâm khiêm tốn là công, ngoài hành lễ phép là đức; tự tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức; chẳng rời tự tánh là công, ứng dụng vô nhiễm là đức. Muốn tìm kiếm Pháp thân của công đức, phải y theo đây thực hành mới là chơn công đức. Người tu hạnh công đức, tâm chẳng khinh người, thường hành pháp cung kính. Tâm nếu khinh người, nhơn ngã chẳng dứt tức là chẳng công, tự mình hư vọng chẳng thật tức là chẳng đức, vì ngã chấp quá lớn, nên thường khinh bỉ tất cả. Thiện tri thức, niệm niệm chẳng gián đoạn là công, tâm bình đẳng hạnh ngay thẳng là đức; tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Thiện tri thức, công đức phải do tự tánh tự thấy, chẳng phải bố thí cúng dường mà cầu được, nên phước đức và công đức khác nhau là vậy. Võ Đế tự chẳng biết chân lý đâu phải lỗi của Tổ Sư!”.

    Sử Quân lại hỏi: “Để tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A Di Đà, nguyện sanh Tây Phương, được vãng sanh chăng? Xin hòa Thượng chỉ thị để phá nghi”.

    Sư nói: “Sử Quân hãy nghe đây: Lúc Thế Tôn ở trong thành Xá Vệ thuyết Kinh Dẫn Hóa Tây Phương, rõ ràng từ đây đến đó chẳng xa. Nếu nói theo tướng thuyết, tính theo số dặm thì có mười vạn tám ngàn tức thập ác, tám tà nơi thân; đó là nói xa. Nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì người thượng trí, người có hai loại, pháp chẳng hai thứ, do mê ngộ có khác nên thấy có nhanh chậm. Kẻ mê niệm Phật cầu sanh nơi khác, người ngộ tự tin nơi tâm. Cho nên Phật nói: “Tùy nơi tâm tịnh (trong sạch) tức Phật độ tịnh”. Sử Quân là người Đông Phương, hễ tâm tịnh thì chẳng tạo tội, người Tây Phương nếu tâm chẳng tịnh cũng có lỗi. Người Đông Phương tạo tội niệm Phật cầu sanh Tây Phương, người Tây Phương tạo tội cầu sanh nơi nào? Kẻ mê chẳng rõ tự tánh, chẳng biết tịnh độ trong thân, cầu nguyện nơi Đông nơi Tây, người ngộ thì ở đâu cũng vậy. Cho nên Phật nói: “Ở bất cứ nơi nào cũng đều an lạc” vậy. Sử Quân nếu chẳng khởi niệm ác thì Tây Phương cách đây chẳng xa nếu tâm thường khởi ác thì dẫu cho niệm Phật thì cũng khó mà vãng sanh. Nay khuyên Thiện tri thức, trước nhất phải trừ thập ác tức là đã đi được mười vạn dặm, sau dứt tám tà tức đã qua tám ngàn dặm vậy. Niệm niệm thấy tánh, thực hành bình đẳng và ngay thẳng, đến Tây Phương như bún ngón tay, liền thấy Di Đà. Sử Quân chỉ cần tu thập thiện, đâu cần phải nguyện vãng sanh! Nếu chẳng dứt thập ác tâm, Phật nào mà đến rước? Nếu ngộ được pháp vốn VÔ SANH, thấy Tây Phương chỉ trong chốc lát, chẳng ngộ tự tâm mà niệm Phật thì con đường vãng sanh xa xôi, làm sao đến được! Nay Huệ Năng dời Tây Phương đến với các ngươi, chỉ cần trong sát na liền thấy trước mắt, các ngươi có muốn thấy chăng?”.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  11. #18
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Đại chúng đảnh lễ rằng: “Nếu được thấy tại nơi đây, đâu cần cầu nguyện vãng sanh nữa, xin Hòa Thượng từ bi hiện cõi Tây Phương cho cả thảy đều thấy”.

    Sư nói: “Đại chúng, cơ thể của các ngươi là thành, nhãn nhĩ tỷ thiệt thân là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý (ý căn), tâm là địa, tánh là vua. Vua ngự nơi tâm địa, tánh còn tức vua còn, tánh đi vua chẳng còn, tánh còn thân tâm còn, tánh đi thân tâm hoại. Tìm Phật ở nơi tâm, chớ nên cầu bên ngoài. Tự tâm mê tức chúng sanh, tự tâm giác ngộ tức Phật, từ bi tức Quán Âm, hỷ xã tức Thế Chí, thanh tịnh tức Thích Ca, bình đẳng ngay thẳng tức Di Đà, nhơn ngã là núi Tu di, tà tâm là nước biển, phiền não là làn sóng, độc hại là rồng ác, hư vọng là quỷ thần, trần lao là cá trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Thiện tri thức, thường hành Thập thiện, thiên đàng liền đến, trừ được nhơn ngã, núi Tu Di sập, phá được tà tâm thì nước biển cạn, chẳng sanh phiền não thì làn sóng lặn, quên bỏ độc hại thì cá rồng tuyệt. Tự tánh Như Lai trong tâm địa phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh, phá hết lục dục chư thiên, tự tánh chiếu soi, bên trong liền trừ tam độc, các tội địa ngục nhất thời tan rã, trong ngoài sáng tỏ, chẳng khác Tây Phương, nếu chẳng tu như vậy, Tây Phương làm sao đến được?

    Đại chúng nghe nói, đều tự tin sẽ được kiến tánh, thảy đều lễ bái tán thán rằng: “Lành thay, nguyện khắp pháp giới chúng sanh, nghe được pháp này sẽ được từ NGHI đến NGỘ”.

    Sư nói: “Thiện tri thức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, chẳng do tại chùa. Tại gia tu được như người Đông Phương mà tâm thiện, tại chùa chẳng tu như kẻ Tây Phương mà tâm ác, chỉ cần tâm được thanh tịnh tức tự tánh Tây Phương”.

    Sử Quân lại hỏi: “Tại gia phải tu như thế nào? Xin Hòa Thượng chỉ dạy”.

    Sư nói: “Nay ta vì các ngươi nói bài VÔ TƯỚNG TỤNG, chỉ cần y theo đây mà tu, như thường ở với ta chẳng khác, nếu chẳng chịu tu, dẫu cho xuống tóc xuất gia, cũng đâu có ích lợi gì?” Bài tụng rằng:


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  12. #19
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Tâm bình hà lao trì giới,

    Hạnh trực hà dụng tu thiền.

    Ân tắc thân dưỡng phụ mẫu,

    Nghĩa tắc thượng hạ tương lân.

    Nhượng tắc tôn ty hòa mục,

    Nhẫn tắc chúng ác vô tuyên.

    Nhược năng toản mộc thủ hỏa,

    Ứ nê định sinh hồng liên.

    Khổ khẩu tức thị lương dược,

    Nghịch nhĩ tất thị trung ngôn.

    Cải hóa tất sanh trí huệ

    Hộ đoản tâm nội phi hiền

    Nhựt dụng thường hành nhiêu ích,

    Thành đạo phi do thí tiền.

    Bồ Đề chỉ hướng tâm mích,

    Hà lao hướng ngoại cầu huyền.

    Thính thuyết y thử tu hành,

    Thiên đàng chỉ tại mục tiền.



    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  13. #20
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Dịch nghĩa:

    Tâm bình đẳng (bất nhị) chẳng nhọc trì giới

    (Tâm địa chẳng quấy tự tánh giới).

    Hạnh ngay thẳng (bất nhị) đâu cần tu thiền.

    (Hạnh ngay thẳng là công phu bảo nhậm, ngộ

    rồi chỉ cần bảo nhậm, khỏi phải tu thiền).

    Báo ân là nuôi dưỡng cha mẹ,

    Nhân nghĩa thì già trẻ thương nhau.

    Khiêm nhường thì sang hèn hòa thuận,

    Nhẫn nhục thì việc ác chẳng sanh.

    Nếu công phu miên mật mãi mãi,

    Kẻ ngu độn cũng phải kiến tánh.

    Thuốc đắng hay trừ được bệnh khổ,

    Lời trái tai ắt là trung ngôn.

    Tự sửa quấy sẽ sanh trí huệ,

    Giấu lỗi thì trong tâm chẳng lành.

    Hằng ngày thường lợi ích chúng sanh,

    Thành đạo chẳng do bố thí tiền.

    Bồ Đề chỉ ở nơi tâm ngộ.

    Đâu cần hướng ngoại để cầu huyền.

    Nghe xong hãy theo đây mà tu hành,

    Tịnh độ đã ở ngay trước mắt.


    Sư lại nói: “Thiện tri thức, cần phải y theo kệ này tu hành, nhận thấy tự tánh, thẳng đến Phật địa. Pháp chẳng đợi người, các ngươi hãy đi, ta về Tào Khê, hễ có thắc mắc thì đến hỏi”.

    Lúc ấy, Sử Quân và trong hội các quan chức, thiện nam tính nữ đều được tỉnh ngộ, tín thọ phụng hành.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •