“Tất cả đều có đủ mười hiệu là Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.
“Hết thảy các vị Phật này đều trong cùng một ngày, một giờ, mỗi vị ở nơi thế giới của mình mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thọ mạng của mỗi vị đều là mười trung kiếp, đều nhập Niết-bàn trong cùng một ngày. Sau khi nhập Niết-bàn rồi, sau bảy ngày chánh pháp sẽ diệt mất.
“Thiện nam tử! Khi ấy, mười ngàn người cùng hướng về đức Phật Bảo Tạng, cúi đầu làm lễ.
“Bấy giờ, đức Thế Tôn vì mười ngàn người ấy thuyết kệ rằng:
Long vương hãy đứng lên!
Được kiên cố tự tại,
Phát nguyện lành vô thượng,
Thanh tịnh và hòa hợp,
Dụng ý của các ông,
Gấp rút như gió mạnh,
Tinh tấn và chuyên cần,
Tu học pháp Lục độ,
Đời vị lai sẽ thành,
Tôn quý trong Ba cõi.
“Thiện nam tử! Khi ấy, mười ngàn người cùng nghe kệ rồi sinh tâm hoan hỷ, liền đứng lên trước Phật chắp tay cung kính, lễ bái dưới chân Phật rồi lui ra gần đó, ngồi yên lặng lắng nghe thuyết pháp.
“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ Phạm-chí Bảo Hải lại khuyên bảo vương tử thứ chín là Mật-tô phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cho đến phát nguyện được cõi Phật.
“Khi ấy, vương tử Mật-tô bạch trước Phật rằng: ‘Thế Tôn! Khi con tu hành đạo Bồ Tát, nguyện được hết thảy chư Phật hiện tại trong các thế giới mười phương nhiều như số cát sông Hằng vì con mà chứng minh, nay con ở trước Phật phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thế Tôn! Nguyện trong khi con tu hành đạo Bồ Tát cho đến khi thành Phật, chẳng bao giờ sinh tâm hối tiếc, đến khi thành Phật cũng vẫn thường trụ yên nơi nhất tâm, không có sự thối chuyển, luôn theo đúng như sự thuyết dạy mà làm, theo đúng như việc làm mà thuyết dạy, cho đến chẳng có một người nào đến làm não hại tâm con. Con rốt ráo chẳng cầu Thanh văn, Duyên giác, chẳng khởi tâm dâm dục, chẳng khởi các tư tưởng ác. Con cũng chẳng bao giờ để tâm rơi vào những trạng thái mê ngủ, kiêu căng, ngạo mạn, nghi ngờ, hối tiếc... cũng chẳng sinh khởi những tâm tham lam, dâm dục, giết hại, trộm cắp, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời không chân chánh, sân hận, tà kiến, ganh ghét; cũng chẳng bao giờ dám khi dễ, xem nhẹ chánh pháp.
“Trong suốt thời gian con tu hành đạo Bồ Tát cho đến thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nguyện không sinh khởi các pháp xấu ác như vậy, cho đến thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, mỗi bước chân đi vẫn thường niệm tưởng chánh pháp, niệm tưởng chư Phật, được thấy chư Phật, thưa hỏi và nhận lãnh chánh pháp nhiệm mầu, cúng dường chúng tăng.
“Mỗi khi con sinh ra ở bất cứ đâu, nguyện thường xuất gia tu tập. Ngay khi xuất gia liền tự nhiên có đủ ba tấm phấn tảo y, thường ngồi tư duy một mình dưới gốc cây, ở nơi thanh vắng tịch tĩnh thường thực hành việc khất thực, không cầu được lợi dưỡng, thực hành hạnh biết đủ, thường giảng thuyết chánh pháp, thành tựu được vô lượng tài biện thuyết không có chướng ngại, không phạm vào các tội lớn; không rơi vào chấp ngã khi vì người nữ thuyết pháp, khi thuyết pháp thường luôn giữ lấy tướng không, trong tâm nhớ nghĩ muôn pháp đều không, chắp tay ngồi ngay ngắn, khi nói chẳng để lộ răng.
“Khi gặp những người học tập theo Đại thừa, luôn khởi ý tưởng xem đó như đức Thế Tôn, thường luôn cung kính cúng dường. Ở bất cứ nơi đâu được nghe chánh pháp đều khởi ý tưởng xem như được gặp Phật. Đối với các vị sa-môn, bà-la-môn cũng luôn cung kính, cúng dường tôn trọng. Khi thực hành việc bố thí, cúng dường, chỉ trừ ra đức Phật Thế Tôn, còn đối với tất cả mọi người khác đều không có tâm phân biệt là ruộng phước hay không phải ruộng phước.
“Con nguyện đối với những người bố thí pháp không sinh lòng ganh ghét. Nếu có chúng sinh nào sắp bị hình phạt giết chóc, con nguyện xả bỏ thân mạng để cứu giúp, bảo vệ. Nếu có chúng sinh nào phạm vào tội lỗi, con nguyện dùng hết sức mình với mọi phương tiện như lời nói, tiền bạc, của cải... để cứu giúp, khiến cho được giải thoát.