Nguyên văn:

復次,究竟離妄執者,當知染法淨法 悉相待,無有自相可說。是故一切法 本已來,非色非心,非智非識,非有 非無,畢竟不可說相。而有言說者, 知如來善巧方便,假以言說引導眾生 其旨趣者,皆為離念,歸於真如。以 念一切法令心生滅,不入實智故。

Dịch nghĩa:

Lại nữa, rốt ráo rời được vọng chấp, thì nên biết pháp nhiễm pháp tịnh thảy đều đối đãi với nhau, không có tự tướng có thể nói. Vậy nên tất cả các pháp từ xưa đến nay, không phải sắc không phải tâm, không phải trí không phải thức, không phải có không phải không, cái tướng rốt ráo không thể nói được. Mà có lời nói, thì nên biết đó là phương tiện thiện xảo của Như lai, mượn lời nói để dắt dìu chúng sanh. Mục đích đó, đều là ly niệm, qui về chơn như. Do đã niệm tất cả các pháp thì khiến cho tâm sanh diệt, không vào được thật trí.

Luận với mục đích chính là hiển chánh, phá tà, thành lập ý nghĩa Như Lai tạng duyên khởi. Nhưng vọng chấp không chỉ như trên nói đến là nhân chấp ngã chấp, đó chỉ là một bộ phận nhỏ; vọng chấp cần phải xa lìa còn rất nhiều; nên xả tận hết tất cả, phá trừ vọng chấp vi tế nhỏ nhặt nhất. Do đó, lại bàn luận thêm vấn đề rốt ráo xả ly vọng chấp.

“Rốt ráo rời được vọng chấp” trước hết “thì nên biết pháp nhiễm pháp tịnh thảy đều đối đãi với nhau” hỗ tương nương tựa hỗ tương đối đãi mà thành lập, như “Kinh Bát Nhã” nói: “không có tự tướng để trình bày”. Tự tướng tức tự mình tồn tại. Pháp tạp nhiễm và thanh tịnh mà chúng sanh nhận biết được là qua sự hỗ tương đối đãi, ngược lại với pháp thanh tịnh thì tạp nhiễm, đối ngược với pháp tạp nhiễm là thanh tịnh, cũng như xả lìa sân hận thì khởi lòng từ bi, xa rời ngu si thì khởi lên trí tuệ v.v... Lại như nhân vì giới mà sanh định, nhân vì định mà phát trí tuệ; nhân vì tham mà khởi sự sân hận, nhân vì ngu si mà khởi lên tà kiến v.v... Đây đều là sự sản sanh do tính tương đối của pháp thanh tịnh và tạp nhiễm, cũng chính là tính tương đối. Điều này không chỉ pháp tạp nhiễm hữu lậu của thế gian, mới có tính tương đối như thế; mà còn pháp thanh tịnh vô lậu xuất thế gian cũng vậy, đều tương đối với pháp tạp nhiễm mà an lập. Cho nên suy luận ra, tất cả pháp là “không có tự tướng có thể nói”. Tất cả pháp nhiễm và tịnh, nếu phân chia ra thì có hai loại: một là thuộc sắc pháp phần vật chất, một loại là thuộc tâm pháp phần tinh thần. Sắc và tâm đó cũng tương đối mà thành lập, thật thể của nó không thể nắm bắt. Do đó, khẳng định: “vậy nên tất cả các pháp từ xưa đến nay, không phải sắc không phải tâm”. Trí và thức là hai môn trong Phật pháp: thức có công năng hiểu biết là pháp tạp nhiễm hữu lậu; trí và giác tri là pháp thanh tịnh vô lậu. Pháp tạp nhiễm lấy thức làm chính, pháp thanh tịnh lấy trí làm chính. Trí với thức cũng là tương đối mà thành lập; truy tìm cho đến cuối cùng, thì “không phải trí không phải thức”. Lại nữa, nếu nói tất cả pháp đều thực có mà lại không có thật thể để nắm bắt; nói nó là không có, lại hình như có sự tương đối của thể và dụng; do đó, “không phải có” cũng “không phải không”. Như thế, tất cả là “cái tướng rốt ráo không thể nói được” như thế này hoặc như thế kia. Tự tướng của các pháp không thể nắm bắt không thể diễn đạt, thì không có ngôn ngữ để trình bày, cũng chính là không thể được không thể nói. Các vị thiền sư ngày xưa hay dạy: Lấy tâm làm tông, lấy vô vi làm môn. Thiền tông là duy tâm luận tuyệt đối, song tu hành để thể ngộ chơn như, là lấy không có chỗ đạt được làm phương tiện. Trong Thiền tông, nếu có nói điều gì cũng đều không phải, mà thực chất là quy hướng về mục đích chính là tức tâm tức Phật! Có người cho rằng Thiền tông gần giống với Tam Luận Bát-nhã, đó chẳng qua là hình thức tương tợ thôi. Phương pháp và mục tiêu của Luận, cũng đại thể là tương đồng với điều này. Tất cả không thể được, không thể nói, mà đức Phật ở trong không ngôn lời “mà có” các loại “lời nói”, “thì nên biết” chính vì “đó là phương tiện thiện xảo của Như lai”. Đức Phật “mượn lời nói” thuyết pháp, với mục đích “để dắt dìu chúng sanh”; bởi vì chúng sanh không thể xa rời ngôn ngữ để diễn đạt tướng trạng. “Mục đích” của ngôn ngữ giảng dạy “đó”, “đều là ly niệm” mà “qui về chơn như”. Như học Phật pháp, nếu không tuỳ thuận theo lời giảng dạy của đức Phật, tuỳ thuận với vô niệm, học càng nhiều thì vọng niệm càng lớn, thì điều này đi ngược lại với chơn ý khi đức Phật thuyết pháp. Học Phật pháp cần phải hiểu được mục đích diễn đạt ở đằng sau của ngôn ngữ. Nếu không, thì như “do đã niệm tất cả các pháp” - niệm sắc và tâm, niệm nhiễm và tịnh, niệm hữu và vô; khi niệm sanh khởi tức là động, nếu động thì có sự thay đổi, “thì khiến cho tâm sanh diệt”. Nếu tâm có sự sanh diệt, tức “không vào được thật trí” của chơn như. Luận này được xây dựng trên lập trường của Chơn thường duy tâm, đưa ra vấn đề tất cả pháp không thể được, với một cách khéo léo quét sạch hết tất cả mà không để lại một chút dấu vết, thật rất là thiện xảo!