Nguyên văn:
此體用熏習,分別復有二種,云何為 ?一者未相應,謂凡夫、二乘、初發 菩薩等,以意意識熏習,依信力故而 能修行。未得無分別心與體相應故; 得自在業修行,與用相應故。二者已 應,謂法身菩薩,得無分別心,與諸 佛智用相應。唯依法力自然修行,熏 真如滅無明故。
Dịch nghĩa:
Thể dụng huân tập này, phân biệt thì có hai loại, thế nào là hai? Một là chưa tương ưng, nghĩa là phàm phu, Nhị thừa, sơ phát ý Bồ-tát v.v..., dùng ý ý thức huân tập, nương với tín lực mà có khả năng tu hành. Chưa chứng đắc vô phân biệt tâm với thể tương ưng; chưa chứng đắc tự tại nghiệp tu hành, với dụng tương ưng. Hai là đã tương ưng, nghĩa là pháp thân Bồ-tát, chứng đắc vô phân biệt tâm, với chư Phật trí dụng tương ưng. Chỉ nương với pháp lực tự nhiên tu hành, huân tập chơn như diệt vô minh.
Phần trên đã nói qua tự thể tướng huân tập và dụng huân tập trong phần chơn như huân tập. Nay đem “thể dụng huân tập này” của Như Lai tạng, từ sự sâu cạn trước sau của nó rồi “phân biệt” thì lại “có hai loại”: là tuy có sự huân tập mà chưa tương ưng với chơn như và sự huân tập đã tương ưng với chơn như.
“Một là chưa tương ưng”: Chơn như huân tập của “phàm phu, Nhị thừa, sơ phát ý Bồ-tát v.v...”, vẫn “dùng ý ý thức huân tập, nương với tín lực mà có khả năng tu hành”. Sơ phát ý Bồ-tát, từ Sơ trụ cho đến Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng - tam thập hiền vị Bồ-tát. Ba loại chúng sanh này, do chưa được hiện chứng tánh Như Lai tạng, do đó tất cả chơn như huân tập, đều chỉ là huân tập của năm ý và ý thức, là hữu lậu tịnh thiện mà huân tập. Cũng có thể nói như thế này: thể dụng huân tập của phàm phu và Nhị thừa chỉ là ý thức huân tập; thể dụng huân tập của tam thập hiền vị Bồ-tát là ý huân tập. Đây tuy có sử dụng ý và ý thức huân tập không giống, nhưng chưa có được chơn trí hiện chứng, do đó đều là nương vào sự tin tưởng ngưỡng mộ vào giáo thuyết của chư Phật Bồ-tát mà huân tập tu hành. Vì thế gọi là chưa tương ưng:
1. Nhân vì “chưa” có khả năng “chứng đắc vô phân biệt tâm” mà “với” chơn như tự “thể tương ưng”. Vô phân biệt tâm là xả ly vọng tâm của ý ý thức mà chứng đắc như lý trí. Lấy như như trí khế hợp với như như lý, lý trí nhất như, nhất như không có nhị như, gọi là trí tương ưng với chơn thể.
2. Do vì “chưa” có khả năng “chứng đắc tự tại nghiệp tu hành”, mà “với dụng tương ưng”. Tự tại nghiệp là sau khi giác ngộ đương như như lý mà phát sanh diệu dụng của ba nghiệp. Như thế, phàm phu Nhị thừa sơ phát ý Bồ-tát v.v..., tuy nương vào tín lực mà huân tập không gián đoạn, nhưng chưa từng với thể dụng tương ưng, do đó gọi là chưa tương ưng vị.
“Hai là đã tương ưng”: đây là hiện chứng “pháp thân” của Đại địa “Bồ-tát”, đã xả ly vọng tâm mà “chứng đắc vô phân biệt tâm”. Vô phân biệt tâm là được “trí dụng tương ưng với chư Phật”. Trí của chư Phật là diệu giác tánh trí của Như Lai tạng. Vô phân biệt tâm khởi vô phân biệt trí là tương ưng với Như Lai tạng trí thể. Dụng của chư Phật là tự nhiên nghiệp dụng của Như Lai tạng khởi lên tác dụng có khả năng làm tánh cảnh giới chúng sanh. Vô phân biệt tâm khởi lên như lượng trí thì tương ưng với diệu dụng của Như Lai tạng. Đây với pháp thân Bồ-tát tương ưng chư Phật trí dụng, “chỉ nương với pháp” - “lực” huân tập của chơn như Như Lai tạng, “tự nhiên” mà tuỳ thuận “tu hành”. Nương vào pháp mà tu hành tức “huân tập chơn như”, chơn như thể dụng, thứ lớp hiển hiện phát huy; cho đến khi hiển hiện phát huy viên mãn thì “diệt vô minh” rồi cứu cánh thành Phật.
Nương vào chơn như thể dụng huân tập, tuy có tính khả năng thành Phật, mà từ bắt đầu huân tập cho đến diệt trừ vô minh là có giai đoạn tương ưng hoặc không tương ưng. Lại cần phải chú ý: không luận là chơn như tự thể tướng huân tập, hoặc chơn như dụng huân tập, đều là thuyết minh chơn như làm nhân chính, cách nào huân tập mà sanh khởi pháp thanh tịnh không gián đoạn. Pháp thanh tịnh vốn trong Như Lai tạng, mà huân tập sanh khởi, cũng có quá trình trước thì vi tế sau đó lớn dần.

Trả lời với trích dẫn