Tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā
(Cô gái hoa sen)
- o o 0 o o -
Kể từ thời chư Phật quá khứ như đức Chánh Đẳng Giác Padumuttra, Vipassī... cô gái này đã có duyên lành từng được nghe pháp và cúng dường lớn, đặc biệt là hay cúng dường hoa sen; và cũng đã từng phát nguyện dưới chân chư Phật là sau này sẽ đắc quả A-la-hán, trở thành vị Thánh có khả năng thuyết pháp và nhất là thần thông.
Vào thời không có đức Phật ra đời, cô gái sinh ra trong một gia đình lao động nghèo khổ. Một hôm, vào lúc sáng sớm, trên đường ra đồng làm ruộng, cô gái thấy dưới đầm nước có mấy đóa hoa sen vừa nở rất đẹp. Thích thú quá, nàng lội xuống, hái mấy bông và ngắt thêm mấy lá sen nữa. Đến căn chòi tranh tre giữa đồng, để chuẩn bị buổi ăn trưa giản dị cho mình, cô gái ngồi rang cốm, chừng năm trăm hạt nổ rồi lấy những lá sen gói lại.
Lúc ấy, ở núi Gandhamādana, tại Hymalaya hùng vĩ, có một vị Độc Giác Phật (Pacceka-buddha) vừa xuất thiền sau bảy ngày an trú; Ngài dùng thiên nhãn thấy cô gái nông dân kia có duyên lành nên ngài quăng bát qua hư không rồi có mặt tức thì tại căn chòi lá của nàng.
Tại thời khắc ấy, cô gái vừa định bước xuống ruộng, chợt trông thấy vị đạo sĩ, do căn lành quá khứ, nàng liền khởi phát đức tin trong sạch, vào chòi lấy gói cốm rang ra đặt bát rồi dùng luôn mấy đoá hoa sen phủ lên trên cho đẹp. Với tất cả tấm lòng thành, nàng chấp tay, phát nguyện:
“Do phước báu cúng dường cốm rang và hoa sen ngày hôm nay, xin cho con có được rất đông con trai bằng số lượng hạt rang ấy; và mỗi bước chân con đi đều xuất hiện mỗi bông sen tươi thắm!”
Vị Độc Giác nói lời chúc phúc rồi vận thần thông bay về núi, đặt ngay ngắn mấy bông sen trên tảng đá rồi đi khuất vào hang động Nandamūlaka ngồi thọ thực. Tất cả mọi diễn tiến hành động của ngài đều hiện ra rõ ràng trong tầm mắt của cô gái, làm cho nàng vô cùng hân hoan và thỏa thích.
Sau khi thác sanh, phước báu ấy đưa cô hưởng ngũ dục thiện lạc các cõi trời, hết cõi trời, cô lại sanh làm người, nhưng lại hóa sinh trong một búp sen tại một đầm nước dưới chân núi. Có một vị ẩn sĩ ngụ cư gần đấy. Sáng kia, ra đầm rửa mặt, vị ẩn sĩ thấy tất cả sen đều nở, nhưng có một búp sen to lớn lạ thường, lại đang như còn ngậm sương; ngài nghĩ:
“Hẳn có một lý do kỳ lạ hoặc có một nhân duyên đặc biệt,hy hữu nào đây?”
Tò mò, vị ẩn sĩ lội xuống đầm, đặt tay lên búp sen thì kỳ lạ chưa, những cánh sen lại từ từ nở ra; và bên trong hiện ra một cô bé gái nhỏ nhắn, xinh đẹp đang nằm khoanh tròn như hài nhi trong bụng mẹ. Vị ẩn sĩ chợt xúc động, tình phụ tử khởi sanh, ngài ôm cả bông sen và cô bé gái về căn chòi của mình, đặt lên sàng cỏ. Nhìn bé gái như được kết tụ tất cả mọi tinh túy của hương sắc hoa sen, vị ẩn sĩ chợt trầm ngâm, lo lắng vì biết lấy gì mà nuôi nó? Chợt dưng, đầu ngón tay trỏ của ông rịn ướt và một dòng nước trăng trắng chảy ra. Nếm thử, ngài biết đấy là sữa. Thấy nhân duyên gì mà nhiệm mầu quá, ông biết rằng, phước báu của cô bé gái này không phải tầm thường, vượt ra ngoài tầm hiểu biết của phàm phu.
Từ đấy, vị ẩn sĩ hết lòng chăm sóc, nuôi dưỡng hài nhi. Cứ ngày ba bữa, ông chỉ cần đưa ngón tay vào miệng bé thì sữa tự động chảy ra. Sau đó, khi bé no bụng thì sữa cũng tự động tắt! Cô bé lớn nhanh như thổi, bắt đầu biết đi, biết chạy; vị ẩn sĩ phát giác thêm một điều kỳ lạ, là mỗi bước đi của cô bé lại có một bông sen đỡ chân. Hình ảnh ấy như ảo ảnh, vì khi ông tới xem thì không thấy bông sen kia nữa! Điều kỳ lạ thứ hai là ông không cần sắm xiêm y cho bé vì xiêm y của nó cũng tự có, một loại lụa rất đẹp, và sắc màu cũng tương tợ lá sen, cánh sen, nhụy sen! Da mặt, da tay chân của cô bé có một màu hồng mởn, trắng nõn hoặc trắng phớt hồng; bước đi tới đâu thì hương sen tỏa ngát đến đấy! Vị ẩn sĩ thầm hiểu rằng, đây là một vị tiên nữ từ cõi trời nào đó mà hóa sanh nên tứ đại kết dệt nên cô bé đều là loại vật chất tinh khiết, không hề thấy chất thô tháo và dơ uế như thân xác con người. Có thể cô bé là một tiên nữ bị đọa xuống trần gian? Có thể cô bé sẽ có một nhân duyên, sứ mạng nào đó tại cõi người này chăng?
Hỏi thì hỏi vậy thôi, nào ai có thể thấy rõ nhân, duyên và quả của nó trong bóng tối sinh tử trùng trùng!
Hằng ngày, vị ẩn sĩ phải vào rừng hái trái, đào củ để nuôi mạng. Cô bé học lời ăn tiếng nói do vị ẩn sĩ dạy. Và họ sống như tình cảm cha con đầm ấm và hạnh phúc nhất trên trần đời. Khi cô bé thành thiếu nữ thì vị ẩn sĩ đâm ra lo ngại mơ hồ. Cái trần gian bất tịnh và xấu xa này, không nơi nào có chỗ cho cô con gái trong trắng và thuần khiết của ông ở được. Và ông cũng không thể chăm sóc, gìn giữ đóa sen tinh khiết kia cho đến mãn đời!