Một lần khi tỳ-khưu-ni Khemā ở Toraṇavatthu, nằm giữa thành Sāvatthi và Sāketa, đức vua Pāsenadi đã trú tại đó một đêm, khi nghe tin cô có mặt ở đấy nên ông đã ghé thăm và chất vấn cô ta với câu hỏi đại ý rằng: Đức Phật có tồn tại sau khi nhập diệt hay chăng, không tồn tại sau khi nhập diệt chăng, vừa có vừa không tồn tại sau khi nhập diệt chăng, không có không không sau khi nhập diệt chăng?
Cô ta đã trả lời với đức vua rằng:
- Đại vương có biết đấy là câu hỏi thuộc về hí luận chăng? Có biết đấy là câu hỏi mà bậc trí sẽ im lặng chăng? Có biết đấy là câu hỏi loanh quanh luẩn quẩn trong bốn phạm trù triết học nó thuộc về trí năng phù phiếm chăng?
Khi thấy đức vua có vẻ lúng túng thì cô lại mỉm cười, nói tiếp:
- Đức Phật Niết-bàn vô dư, là thực tại tối hậu, nó ở ngoài tương đối, vượt tương đối, ở ngoài mọi ngôn ngữ khái niệm, ở ngoài mọi lập tri của kiến thức mà bốn phạm trù ‘có, không, vừa có vừa không, không có không không’ kia chẳng với tới được? Tại chỗ này, ai thâm chứng thì khắc biết như thế nào, tương tự uống nước, nóng hay lạnh chỉ tự người ấy biết, tâu đại vương!”
Đức vua rất khâm phục. Sau đó, có dịp gặp đức Phật thì ngài cũng nói, là nếu hỏi Như Lai vấn đề ấy thì Như lai cũng trả lời như vậy không khác hơn.
Có lần, khi đang ngồi thiền dưới gốc cây thì một ma vương hiện ra với hình ảnh một thanh niên trẻ đẹp, tuấn tú quyến dụ bà với bài kệ như sau:
Nàng vừa trẻ đẹp vừa duyên dáng, đang còn trong tuổi thanh xuân diễm lệ, mà ta đây cũng vậy. Sao chúng ta không trỗi một khúc nhạc huyền cầm rồi cùng nhau hưởng thụ thú vui sắc dục khả ý, khả lạc?
Rồi tỳ-khưu-ni Khemā đã đáp trả lại mấy đoạn kệ sau đây:
Ngươi nói gì vậy, hỡi ma vương? Cái gọi là trẻ đẹp, thanh xuân, duyên dáng và diễm lệ kia? Chính ta đã tự hổ thẹn, đã tự khổ sở và mắc cỡ vì cái thân xác ngu si, vô tri, bệnh hoạn, bất tịnh và thối rữa này! Hiện tại thì ta đã nhổ tiệt, bứng tận cái gốc ái luyến tự ngã ấy rồi!
Ngươi không biết đâu, mà có lẽ muôn triệu năm bóng tối ngươi cũng không tự biết, là tham dục được ví như gươm giáo và cây cọc của đoạn đầu đài, ngươi đã đặt cái đầu, cái cần cổ của ngươi ở đấy chưa? Ai đi vào mê lộ của nó sẽ đau khổ, thống khổ, chua cay, thất bại và hoàn toàn bất lực, tuyệt vọng. Còn riêng ta, ta đã làm tiêu ma các dục, các uẩn, đã đoạn trừ tất thảy các trò chơi thống lụy và điên đảo kia rồi! Đừng giở trò ngu ngốc mà quyến dụ ta nữa.
Hãy đi vào núi mà tìm gặp các đạo sĩ thờ thần mặt trời, thần mặt trăng, đảnh lễ thần mặt trời, thần mặt trăng! Hãy đi vào núi tìm gặp các đạo sĩ thờ thần lửa, đảnh lễ thần lửa và hỏi cách chăm sóc ngọn lửa! Bọn đạo sĩ si mê ấy được thế gian cho là thanh tịnh, hiện ở trong quyền lực của ngươi đấy! Còn ta thì đừng có hòng! Ta đã vô hành, vô tạo tác và đã chấm dứt tất cả khát vọng, lậu hoặc, đã ở ngoài quyền lực của ngũ ma,trong đó có cả ngươi! Hãy tan vào bóng tối đi!
Do tuệ chứng, tâm chứng cùng nhiều khả năng trí tài, sau này, đức Phật giao nhiệm vụ cho tỳ-khưu-ni Khemā với vai trò như là một nữ đại đệ tử có trí tuệ đệ nhất, thường thuyết pháp hóa độ cho rất nhiều nữ giới tín phục, quy y hoặc sống đời xuất gia phạm hạnh.
Tỳ-khưu-ni Khemā trong nhiều kiếp trước được nhận biết là một người mẹ trong túc sanh truyện Uraga, làm hoàng hậu trong hai tích chuyện Rohantamiga và Haṃsa; là hoàng hậu Khemā trong Mahāhaṃsa, và làm công chúa trong chuyện Mahājanaka...
Cô được nói đến rất nhiều trong kinh điển như lý tưởng cao đẹp nhất của nữ giới đáng để noi theo và được mô tả như là một tỳ-khưu-ni xuất sắc.