Bản lai diện mục là "bộ mặt thật xưa nay" của chúng ta, nó là tên khác của Đạo, của Pháp thân, của Phật tánh, của Chơn tâm... Chúng ta, có bộ mặt thật muôn đời không đổi, mà tự bỏ quên nó, bám vào thân hình tạm bợ cho là thật mình. Cái thân hình đang chấp giữ là thật mình, nó thay đổi từng phút giây, hợp tan không nhất định. Thế thì lấy gì bảo chứng cho nó là thật ?. Quả thực một hình tướng biến thiên, một hợp thể tạm bợ. Nó có, mà không thật có, vì luôn luôn đổi thay, còn mà không thật còn, vì hợp tan chẳng định. Nếu chấp chặt nó là ta, thật là cái ta tạm bợ làm sao ! Hoặc có người biết thân này giả dối, chính cái tâm biết thiện, biết ác, biết phải, biết quấy, tốt xấu... mới thật là ta. Song cái tâm phân biệt cũng là đổi thay tạm bợ. Vì vừa dấy nghĩ về lành, về dữ thì nó đã sanh diệt rồi. Nếu buông hết mọi vấn đề đối đãi, tìm lại nó thì tung tích vắng tanh. Thế là, ta ở đâu ? Mất rồi sao ?. Thật bối rối vô cùng, nếu chấp cái suy nghĩ làm ta. chỉ vì chấp thân tạm bợ, tâm giả dối làm ta, nên muôn kiếp trôi lăn trong sanh diệt, gọi là luân hồi.
Ngay nơi thân tạm bợ, tâm giả dối, chúng ta nhận ra "bộ mặt thật xưa nay" của mình và sống hẳn với nó, dòng sanh diệt ngang đây liền dừng, kiếp luân hồi đến đây giải thoát. "Bộ mặt thật xưa nay" chưa từng bị sanh diệt, một thực thể không do duyên hợp, làm gì bị đổi thay, tan hợp ?. Nó vẫn có và thường còn mà chúng ta quên đi, gọi là vô minh, nhận ra nó không còn lầm quên nữa, gọi là giác ngộ.
Muốn chỉ "Bộ mặt thật xưa nay" cho người, không có cách kỳ diệu nào bằng câu "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh?", của Lục Tổ. Người ta cứ thắc mắc "Cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh ?" mà chẳng nhớ "không nghĩ thiện, không nghĩ ác", là tối quan trọng. Chính khi "không nghĩ thiện, không nghĩ ác" là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh chớ gì. Bởi khi tâm bình thường tỉnh táo, không dấy nghĩ thiện ác, phải quấy..., quả là "bộ mặt thật xưa nay xuất hiện. Vừa dấy nghĩ thiện ác... là động, là chạy theo sanh diệt, "bộ mặt thật xưa nay" bị khuất lấp mất rồi. Cho nên qua câu nóị nầy, Thượng Tọa Minh khéo thấy được "bộ mặt thật xưa nay" của mình, gọi là ngộ đạo.
Dưới đây thêm những bài thuyết pháp đơn giản bình dị mà hay tuyệt của các Thiền Sư.
"Thiền sư Tùng Thẩm (Triệu Châu) đến tham vấn Nam Tuyền (Phổ Nguyện), hỏi :
- Thế nào là đạo ?
Nam Tuyền đáp :
- Tâm bình thường là đạo.
- Lại có thể nhằm tiến đến chăng ?
- Nghĩ nhằm tiến đến là trái.
- Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo ?
- Đạo chẳng thuộc, biết chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy.
Ngay câu nói này, Sư ngộ đạo.