Tiến trình chết
Tiến trình chết được giải thích cặn kẽ trong nhiều kinh sách Tây Tạng. Cốt yếu nó gồm hai giai đoạn tan rã : một sự tan rã bên ngoài, khi các căn và tứ đại phân tán ; và một sự tan rã bên trong, thuộc về các ý tưởng và cảm xúc thô và tế. Nhưng trước hết ta cần hiểu rõ những thành phần của thể xác và tâm thức ta, những thứ sẽ phân tán vào lúc chết.
Toàn thể sinh tồn của ta được quyết định bởi các đại chủng : đất, nước, lửa, gió và khoảng không. Nhờ các đại chủng này mà thân thể thành hình và tồn tại, và khi chúng tan rã thì chúng ta chết. Chúng ta quen thuộc với những đại chủng bên ngoài, những thứ định đoạt cách thế chúng ta sống, nhưng điều đáng chú ý là những đại chủng bên ngoài này tác động ảnh hưởng lên các đại chủng bên trong cơ thể ta như thế nào. Và tiềm năng cùng tính chất của năm đại chủng này cũng hiện hữu trong tâm chúng ta. Khả năng của tâm thức để làm nền tảng cho mọi kinh nghiệm là cái khả năng của đất ; tính tương tục và dễ thích nghi của nó là nước ; tính sáng suốt và khả năng nhận thức của nó là lửa ; tính chuyển động liên tục của nó là gió ; và tính trống rỗng vô giới hạn của nó là hư không.
Sau đây, giải thích cơ thể vật lý của chúng ta hình thành như thế nào. Một văn bản y khoa cổ của Tây Tạng nói :
“Các thức thuộc về giác quan khởi lên từ trong tâm. Thịt, xương, khứu giác và mùi được tạo thành do địa đại. Máu, vị giác, vị và chất lỏng khởi lên từ thủy đại. Hơi ấm, màu, thị giác và hình sắc được hình thành từ hỏa đại. Hơi thở, xúc giác và đối tượng vật lý được tạo thành từ phong đại. Những lỗ hổng trong thân, thính giác và âm thanh được tạo thành từ không đại”.
(Ambrosia Heart Tantra, p.33)
Kalu Rinpoche viết : “Tóm lại, chính từ nơi tâm, biểu trưng tính chất năm đại chủng, mà cơ thể vật lý phát triển. Chính cơ thể vật lý cũng thấm nhuần năm tính chất này, và chính vì cái phức thể tâm/vật này mà chúng ta nhận thức được ngoại giới - cái thế giới cũng gồm năm đại chủng đất, nước, lửa, gió và hư không như vậy”.
Truyền thống Mật tông Tây Tạng nêu lên một giải thích về thân xác hoàn toàn khác với lối giải thích mà chúng ta vẫn quen thuộc. Đây là một hệ thống tâm vật lý, gồm một mạng lưới năng động với những huyệt đạo vi tế, “khí” hay nội khí, và tinh thần. Những thứ này Phạn ngữ gọi là nadi, prana và bindu (tinh khí thần) ; Tạng ngữ gọi là tsa, lung và tikleù. Chúng ta quen thuộc với một thứ tương tự trong y học và châm cứu Trung quốc là các kinh mạch và khí.
Thân người được các bậc thầy ví như một đô thị, các kinh mạch giống như đường sá, gió như ngựa, tâm như người cỡi. Có 72.000 kinh mạch vi tế trong thân thể, nhưng có 3 kinh mạch chính : trung ương, chạy dọc cột sống, và kinh mạch bên trái và phải chạy hai bên kinh mạch trung ương. Hai kinh mạch phải, trái cuộn quanh kinh mạch giữa tại một số điểm để làm thành một dãy “gút” . Dọc theo kinh mạch chính có một số “luân xa” chakras, trung tâm năng lượng, từ đấy những kinh mạch phân ra như những cọng dù. Qua những kinh mạch ấy, “khí” tuôn chảy, còn gọi là nội khí. Có 5 khí gốc và 5 khí ngành ngọn. Mỗi khí gốc nâng đỡ một đại chủng và chịu trách nhiệm về một vận hành của cơ thể con người. Những khí ngành ngọn giúp cho các giác quan hoạt động. Những khí nào chảy qua tất cả các kinh mạch, ngoại trừ kinh mạch giữa, thì được gọi là bất tịnh, vì gợi lên những mẫu tư duy nghị nguyên, tiêu cực. Những khí ở huyệt đạo trung ương gọi là “khí của trí tuệ”.
“Tinh chất” chứa đựng trong các huyệt đạo. Có tinh đỏ và trắng. Chỗ chứa chính thức của tinh trắng là cái đỉnh đầu, và tinh đỏ ở nơi lỗ rốn.
Trong thực hành yoga cao cấp, hệ thống này được hành giả quán rất rõ. Bằng cách làm cho khí vào trong huyệt đạo trung ương nhờ năng lực thiền định, một hành giả có thể trực nhận ánh sáng hay “Điểm Linh Quang” của tự tánh tâm. Điều này làm được vì tâm thức cỡi trên khí. Bằng cách hướng tâm về một chỗ đặc biệt nào trên cơ thể mình, hành giả có thể đưa khí đến đấy. Với cách ấy, hành giả đang mô phỏng cái điều xảy ra lúc chết : khi những gút trong các huyệt đạo được bung ra, khí chảy vào huyệt đạo trung ương, và hành giả đốn ngộ tức thì.