Từ giã thân xác
Bây giờ khi Trung Ấm cái chết xuất hiện
Tôi sẽ từ bỏ mọi bám víu khát khao chấp thủ
Thể nhập không tán loạn vào tinh yếu của giáo lý
Và chiếu tâm tôi vào không gian của tự tánh vô sanh.
Khi từ bỏ tập hợp máu thịt thân xác này
Tôi biết nó chỉ là ảo ảnh phù du.
Hiện giờ, thân ta có lẽ là trung tâm của vũ trụ. Chúng ta liên kết nó với tự ngã của ta, với cái tôi của ta, và sự liên kết sai lầm ấy cứ tăng cường cái ảo tưởng về hiện hữu cụ thể bất khả phân này. Bởi vì thân ta dường như hiện hữu, nên cái tôi cũng dường như có, và “anh” cũng dường như có, và cái toàn thể thế giới nhị nguyên huyễn hóa mà ta không ngừng chiếu ra quanh ta, có vẻ tuyệt đối chắc thực. Khi ta chết, toàn thể tập hợp này tan rã thành từng mảnh vụn một cách thảm hại.
Nói giản dị thì điều xảy ra là tâm thức ở tầng sâu xa vi tế nhất của nó vẫn tiếp tục không cần thân xác và kinh quá chuỗi trạng thái gọi là “Trung Ấm”. Giáo lý dạy ta rằng : chính vì ta không còn có một thân thể trong các trạng thái Trung Ấm, nên không cần phải sợ bất cứ một kinh nghiệm nào, dù ghê rợn tới đâu, có thể xảy ra sau khi chết. Có gì có thể làm hại một cái không-thân ? Tuy nhiên điều rắc rối là trong các trạng thái Trung Ấm, phần đông người ta vẫn tiếp tục chấp thủ một ý thức sai lầm về tự ngã, cùng với sự níu kéo ma quái vào vật thể chắc chắn ; và sự tiếp diễn của ảo tưởng này, vốn đã là gốc rễ mọi đau khổ trong đời, bây giờ lại làm cho người ta khổ thêm vào lúc chết, nhất là trong những cõi “Trung Ấm của sự tái sanh” .
Bạn có thể thấy điều thiết yếu là ngay bây giờ trong lúc còn cái thân xác sống, ta cần phải nhận ra rằng tính bền vững rõ ràng của nó chỉ là một ảo tưởng. Cách hiệu nghiệm nhất để nhận ra điều này là tập trở thành “một đứa con của ảo tưởng” : đừng củng cố cái nhận thức về tự ngã và thế giới, như chúng ta luôn luôn làm, mà phải tiếp tục cái thấy như trong thiền định, rằng mọi hiện tượng đều như mộng như huyễn. Nhận thức về thân huyễn này là nhận thức sâu sắc nhất giúp ta buông xả.
Được trang bị bằng tri thức ấy, thì khi vào lúc chết, đối mặt với sự kiện rằng thân ta là một ảo tưởng, ta sẽ nhận ra ngay được tính chất huyễn hóa của nó mà không hãi sợ, bình thản thoát khỏi mọi bám víu thân xác, và vui vẻ bỏ nó lại sau lưng, lại còn cảm ơn khi biết rõ mặt thật của nó. Quả thế, khi ấy ta có thể, một cách thực sự và trọn vẹn, chết khi ta chết, và nhờ vậy hoàn toàn giải thoát.
Vậy, hãy nghĩ đến lúc chết như một vùng biên giới lạ lùng của tâm thức, một vùng đất không của ai, trong đó một mặt nếu không hiểu bản chất như huyễn của thân xác, thì khi chết ta có thể kinh hoảng vô cùng vì phải mất nó ; mặt khác chúng ta có thể thấy cái chết đem lại khả năng giải thoát vô giới hạn, một sự giải thoát tuôn phát từ chính sự vắng mặt của xác thân ấy.
Khi chúng ta cuối cùng thoát khỏi cái thân xác đã thống trị quá lâu sự hiểu biết của ta về chính ta như vậy, cái thấy do nghiệp của cả một đời bây giờ hoàn toàn kiệt quệ, nhưng nghiệp có thể tạo trong tương lai thì chưa khởi sự kết tinh. Bởi thế, điều xảy ra trong cái chết là, có một khe hở, một khoảng trống đầy những khả tính vô biên ; đó là một thời điểm có tiềm năng ghê gớm, trong đó điều duy nhất đáng kể là tâm của ta đang là cái gì. Khi cởi bỏ thân xác vật lý, tâm đứng chơ vơ và hiển bày một cách dễ sợ bộ mặt nguyên ủy của nó, luôn luôn vẫn là : kiến trúc sư của đời ta.
Vậy nếu khi chết ta đã có một nhận thức vững chãi về tự tánh của tâm, thì trong một nháy mắt có thể thanh lọc tất cả nghiệp. Và nếu chúng ta tiếp tục cái thấy vững chãi ấy, thì ta có thể thực sự chấm dứt tất cả nghiệp, bằng cách thể nhập sự trong sáng sơ nguyên của tự tánh, và đạt giải thoát.
Padmasambhava giải thích điều này như sau :
Bạn có thể tự hỏi, tại sao trong trạng thái Trung Ấm, ta có thể giải thoát chỉ nhờ một thoáng trực nhận tự tánh tâm ? Trả lời như sau : hiện tại tâm ta bị nhốt trong một cái lưới của “gió nghiệp” , và gió nghiệp lại bị nhốt trong một cái lưới là xác thân vật lý của ta. Kết quả là ta không có được tự do tự chủ. Nhưng vừa khi thân xác ta đã chia lìa thành tâm và vật, trong khoảng hở trước khi nó bị nhốt một lần nữa trong cái lưới của một thân sau, cái tâm, cùng với những trình diễn ảo thuật của nó, bây giờ không có chỗ y cứ vật lý cụ thể. Trong khi nó còn thiếu một cơ sở vật chất như thế, thì chúng ta còn tự do - và ta có thể nhận ra được.
Khả năng đạt an trú chỉ nhờ nhận chân được tự tánh tâm, là ví như một bó đuốc trong chớp mắt có thể xua tan bóng tối ngàn kiếp. Bởi thế, nếu chúng ta có thể nhận ra tự tánh tâm trong cõi trung gian như bây giờ, khi bậc thầy khai thị, thì chắc chắn sẽ đạt giác ngộ. Bởi vậy, ngay từ bây giờ trở đi, ta phải tập quen với tự tánh tâm nhờ thực hành thiền định.