Trong truyền thống chúng tôi có “ba chân xác” cần hội đủ để khai thị bản tâm:
· Sự làm phép của một bậc thầy chân xác,
· Lòng sùng tín của một đệ tử chân xác, và
· Tính chính thống trong phương pháp khai thị.
Tổng thống Mỹ không thể khai thị bản tâm cho bạn, mà cha hay mẹ bạn cũng không thể làm việc đó. Một người có quyền thế đến bao nhiêu cũng không ăn thua gì, hoặc họ có yêu mến bạn bao nhiêu cũng không ăn thua gì. Việc khai thị chỉ có thể được thực hiện bởi một người đã hoàn toàn thực chứng, và có sự ban phép và kinh nghiệm thuộc trong hệ phái truyền thừa.
Và bạn, người học trò, phải tìm ra và luôn hàm dưỡng cái tri kiến khoáng đạt thênh thang ấy, niềm hăng say, nhiệt tình và sự tôn trọng nó sẽ làm biến đổi cả bầu không khí trong tâm bạn, làm bạn sẵn sàng đón nhận sự khai thị. Đây là điều mà ta gọi là lòng sùng tín. Nếu không có lòng sùng tín, thì thầy có khai thị trò cũng không nhận ra. Sự khai thị bản tâm chỉ có thể thực hiện khi cả thầy lẫn trò cùng thể nhập cái kinh nghiệm ấy; chỉ trong sự giao cảm giữa tâm và trí ấy, người môn sinh mới trực ngộ được.
Phương pháp khai thị cũng vô cùng quan trọng. Chính phương pháp ấy đã được thử nghiệm qua hàng ngàn năm và đã giúp cho những bậc thầy trong quá khứ đạt đến thực chứng. Khi thầy tôi khai thị cho tôi một cách tự nhiên như thế, vào lúc tuổi còn bé như thế, là thầy đã làm một việc hoàn toàn bất thường. Thông thường thì việc khai thị xảy ra muộn hơn nhiều, khi đệ tử đã trải qua những thực tập thiền định và thanh luyện tâm ý. Chính những việc làm này khiến cho tâm trí người đệ tử thuần thục và có thể mở ra để đón nhận tri kiến trực tiếp về chân lý. Vào cái thời điểm đầy tiềm năng của sự khai thị, bậc thầy có thể truyền cái tâm giác ngộ của mình vào trong tâm của người đệ tử bấy giờ đã chân xác sẵn sàng đón nhận. Bậc thầy làm cái việc khai thị cho trò thấy Phật thật là gì, nói cách khác là đánh thức trò thấy sự hiện diện sống động của tuệ giác nội tâm. Trong kinh nghiệm ấy, thì Phật, bản tâm của người đệ tử, và tâm giác ngộ của bậc thầy tan hòa thành một. Khi ấy người học trò nhận ra, trong một niềm tri ân vô bờ bến, rằng không còn nghi ngờ gì nữa, giữa thầy và trò, giữa tâm giác ngộ của bậc thầy và bản tâm người đệ tử, không có và chưa bao giờ có sự ngăn cách nào cả. Dudjom Rinpoche trong bài ca chứng đạo nổi tiếng của ngài đã viết:
- Tuệ giác về cái bây giờ chính là Phật thật,
Trong tâm trạng cởi mở, hài lòng, tôi gặp Thầy trong tim tôi. Khi ta nhận chân được rằng cái tâm bản nhiên bất tận đó chính là Thầy.
Thì không cần bám víu, chấp thủ, cầu khẩn khóc than.
Chỉ cần an trú thoải mái trong trạng thái tự nhiên như nhiên ấy,
Là ta có được phúc lạc của giải thoát.
Khi bạn đã nhận chân toàn triệt rằng tự tính của tâm bạn cũng giống như của thầy, thì từ đấy trở đi bạn và thầy không bao giờ ngăn cách vì thầy là một với tâm bản nhiên của bạn, luôn luôn hiện tiền. Có lẽ bạn còn nhớ Lama Tseten (Chương một), khi sắp chết và được hỏi có muốn gọi bậc thầy đến bên giường không, ông đã trả lời:
- Với bậc thầy, không có cái gì gọi là ngăn cách.
Khi nào bạn thấy được như Lama Tseten rằng thầy và mình không từng xa nhau, thì một niềm tri ân vô bờ bến, một cảm thức úy phục và kính lễ nảy sinh trong bạn. Dudjom Rinpoche gọi đó là “Sự kính lễ của Tri kiến.” Đó là một niềm sùng kính luôn phát tự nhiên do ngộ được cái Tri kiến về bản tâm.

Trả lời với trích dẫn