DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 255
  1. #11
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts


    TÁI SINH TẠI TÂY TẠNG

    Những người nắm vững định luật về nghiệp và đã chứng ngộ, có thể chọn tái sinh nhiều lần để giúp đỡ những người khác. Ở Tây Tạng một truyền thống nhận chân những tái sinh (gọi là tulkus) như thế, được bắt đầu từ thế kỉ mười ba và tiếp tục đến ngày nay. Khi một bậc thầy đắc đạo chết, vị ấy có thể để lại những chỉ dẫn rõ ràng về nơi chốn sẽ tái sinh. Một trong những đệ tử thân tín nhất của vị ấy hay bạn đạo của vị ấy sau đó có thể có một linh kiến hay chiêm bao, nói trước sự tái sanh sắp đến. Trong vài trường hợp, những đệ tử có thể đến một bậc thầy nổi tiếng về tài nhận ra những tulkus, và bậc thầy này có thể có một giấc mộng hay linh kiến giúp ông chỉ đạo sư tìm kiếm. Khi một đứa bé được tìm ra, thì chính bậc thầy này là người xem xét có phải thật hay không.

    Mục đích của truyền thống này là nó bảo đảm kí ức tuệ giác của những bậc thầy đã chứng ngộ khỏi tan mất. Điều quan trọng nhất về đời một vị tái sinh là, trong quá trình huấn luyện, bản lai diện mục - thức dậy, và đấy là dấu hiệu chứng tỏ “thứ thiệt”. Chẳng hạn đức Dalai Lama thừa nhận ngài có thể hiểu dễ dàng từ lúc tuổi còn rất nhỏ, những khía cạnh thâm ảo của giáo lý Phật mà người ta cần phải nhiều năm mới hiểu được.

    Nuôi dưỡng những vị tái sinh cần sự cẩn thận tối đa. Ngay cả trước khi sự huấn luyện bắt đầu, cha mẹ được chỉ dẫn phải đặc biệt chăm sóc những vị ấy. Sư huấn luyện những vị tái sanh còn gắt gao hơn huấn luyện tu sĩ thường, vì những triễn vọng mà người ta chờ đợi ở các vị ấy.

    Đôi khi họ nhớ những đời trước, hoặc chứng tỏ những khả năng lạ lùng. Như Đức Dalai Lama đã nói:

    - Chuyện thông thường là những trẻ tái sanh nhớ được những vật và người từ những đời trước. Một vài trẻ còn có thể thuộc những kinh chưa được ai dạy.

    Một vài người chỉ cần học qua đã thuộc, như trường hợp thầy Jamyang Khientse tôi. Khi còn bé, thầy có một vị dạy kèm rất khó tính. Thầy tôi phải sống với ông trong am cốc trên núi. Một buổi sáng ông bận đi làm lễ cho một người mới chết ở làng lân cận, và trước khi ra đi ông dặn thầy tôi đến chiều phải thuộc một quyển kinh nhan đề là “Tụng những danh hiệu của Văn thù,” một bài kinh rất khó dài năm chục trang, mà thường phải mất nhiều tháng mới thuộc được.

    Như mọi chú bé khác, ông vừa đi khỏi là thầy tôi bắt đầu chơi. Những người xung quanh lo ngại và bảo thầy tôi nên khởi sự học kẻo sẽ bị đòn, vì họ biết ông thầy dạy kèm rất nghiêm khắc và nóng tính. Thầy tôi vẫn chơi đùa cho đến xế chiều, biết ông ta sắp về, mới chịu đọc qua bài kinh một lần. Khi vị thầy dạy kèm trở về hỏi bài, thì thầy tôi đã thuộc lòng không sót một chữ.

    Thông thường, thì không bậc thầy nào lại bắt một đứa trẻ làm một việc như vậy. Nhưng trong thâm tâm, vị này biết thầy tôi là một hóa thân của ngài Văn thù, vị Phật của đại trí huệ, và gần như là ông muốn dụ cho ngài phải tự chứng minh. Chú bé - tức thầy Jamyang Khientse – khi nhận một công việc khó khăn như thế mà không phản đối, cũng đã mặc nhiên tự nhận mình là ai. Về sau thầy Khientse viết trong tự truyện của ngài rằng vị thầy của ngài rất thán phục mặc dù không nói ra.

    Cái gì tiếp tục nơi một vị tái sinh? Có phải vị ấy là một người với tiền thân vị ấy? Vừa phải vừa không phải. Động cơ và sự phát nguyện giúp đỡ mọi hữu tình thì giống, nhưng không phải cũng một người ấy. Yếu tố tiếp nối đời này sang đời khác là một ân phước. Sự truyền thừa ân phước này hòa điệu và thích hợp với mỗi thời đại kế tiếp, và vị tái sinh xuất hiện một cách thích nghi nhất với nghiệp của người đồng thời đại, để có thể hoàn toàn giúp đỡ họ.

    Có lẽ ví dụ cảm động nhất về sự phong phú, hiệu quả, và tinh vi của hệ thống này là Đức Dalai Lama. Ngài được tôn sùng bởi tất cả Phật tử như là nhập thể của Phật Quan Âm, vị Phật của lòng bi mẫn bao la.

    Lớn lên ở Tây Tạng, làm vị Phật-Vương, đức Dalai Lama hấp thụ tất cả sự huấn luyện cổ truyền và những giáo lý chính thống của mọi hệ phái, và trở thành một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của Tây Tạng hiện nay. Nhưng thế giới thì chỉ biết đến ngài như là một người có đức bình dị thẳng thắn và cái nhìn rất thực tiễn. Ngài có một quan tâm nhạy bén đối với nhiều khoa học đương thời: Vật lý, Thần kinh học, Tâm lý học, và Chính trị. Quan điểm và thông điệp của ngài về trách nhiệm đại đồng không những được Phật tử nghe theo mà cả những người thuộc đủ mọi tôn giáo trên thế giới. Sự dấn thân của ngài trong phong trào bất bạo động trong cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tây Tạng trải qua bốn mươi năm đã đem lại cho ngài giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1989. Trong một thời đại bạo động, tấm gương của ngài đã khởi hứng cho nhiều dân tộc trên khắp địa cầu, trong khát vọng tự do của họ. Đức Dalai Lama đã trở thành một trong những người lên tiếng bảo vệ sinh môi trên thế giới, không mỏi mệt trong nỗ lực thức tỉnh con người trước hiểm họa của một nền triết lý ích kỉ duy vật. Ngài được những nhà trí thức và lãnh tụ khắp nơi ngưỡng mộ, tuy thế tôi đã biết hàng trăm người thường dân đủ loại và ở khắp các quốc gia, mà cuộc đời họ đã biến đổi nhờ niềm vui được thấy vẻ đẹp, tính hài hước và sự hiện diện thánh thiện của ngài. Đức Dalai Lama, tôi tin tưởng, chính là gương mặt của Đức Phật Từ Bi đang hướng về một nhân loại lâm nguy; ngài là hiện thân của Quán Âm không những cho Tây Tạng hay cho Phật tử, mà cho toàn thế giới đang cần hơn bao giờ hết, đức bi mẫn và tấm gương của ngài, hoàn toàn phụng sự cho hòa bình.

    Người Tây phương sẽ ngạc nhiên khi biết được rằng ở Tây Tạng đã có bao nhiêu tái sinh, bao nhiêu vị đã từng là đạo sư, học giả, tác giả, bậc thánh, đã có những đóng góp nổi bật cả về giáo lý lẫn về xã hội. Những vị này đóng một vài trò cốt yếu trong lịch sử Tây Tạng. Tôi tin rằng tiến trình tái sinh này không giới hạn ở Tây Tạng, mà có thể xảy ra trong mọi nước vào mọi thời. Trong lịch sử đã có nhiều thiên tài về nghệ thuật, sức mạnh tâm linh, nhân bản, đã giúp loài người tiến hóa. Tôi nghĩ đến Gandhi, Einstein, AbLincoln, đến Shakespeare, đến Beethoven, đến Michelangelo. Khi người Tây Tạng nghe đến những vị ấy, họ liền bảo ngay đấy là những Bồ tát. Và mỗi khi tôi nghe về họ, về tác phẩm, tri kiến của họ, tôi rất xúc động trước sự vĩ đại của tiến trình rộng lớn mà chư Phật và các bậc thầy đã tỏa ra để giải thoát hữu tình và cải thiện thế giới.



    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  2. The Following User Says Thank You to choconxauxi For This Useful Post:

    Hoàng Mai (11-05-2015)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •