Thật khó có thể diễn tả được cái cảm giác đi mà không rõ mình sẽ đến đâu. Hai người hướng đạo luôn luôn cãi nhau, nhờ thế người ta mới biết rằng họ cũng chỉ nghe nói đến lối đi tắt này thôi chứ chưa hề có kinh nghiệm thực sự. Họ nghĩ rằng nếu đã có đường đi thì họ có thể tìm được những dấu vết. Tuy nhiên người ta không thể trông cậy vào khả năng tìm dấu vết hay một thức giác quan thứ sáu nào đó mãi được nên họ cứ tiếp tục bất đồng ý kiến và chúng tôi cứ lầm lũi đi mãi trong những khe núi hẹp, không sao định được phương hướng nữa. Vị du tăng cho biết ông muốn tìm đến một ngôi chùa cổ trong vùng nhưng lạc lối và quanh quẩn trong thung lũng đã mấy hôm nay. Đứa bé hành khất thì theo chân một đoàn khách thương với hy vọng sẽ được hưởng ít cơm thừa canh cặn, nhưng sau khi đi được vài hôm, đoàn người đã lợi dụng lúc nó ngủ say bỏ nó ở lại.
Chúng tôi vừa đi vừa để ý tìm những dấu vết của đoàn khách thương nhưng vô ích, khắp nơi đều tĩnh lặng, vắng vẻ, tuyệt nhiên không có một dấu vết gì. Vượt qua một đỉnh núi khá cao, chúng tôi bắt đầu đổ dốc để xuống một thung lũng cây cỏ xanh rì. Càng đi, lối mòn càng trở nên dốc hơn, chúng tôi phải bỏ lừa đi bộ vì vách núi gần như dựng đứng. Dần dần chúng tôi đi như chạy vì bị lôi cuốn bởi độ nghiêng của vách núi. Đây là điều hết sức nguy hiểm vì chỉ xẩy chân là người ta có thể ngã lộn xuống vực sâu hun hút. Đã thế nếu bị trẹo chân hay gẫy xương thì chỉ có nước chết vì không ai có thể cõng một người khác đi trên vách núi dựng đứng như vậy. Về sau tôi mới biết đây là điều tối kỵ của những người leo núi vì một khi đã xuống đến đáy thung lũng, người ta không thể trở lại lối cũ được nữa. Dĩ nhiên một người hướng đạo giỏi không bao giờ hướng dẫn đoàn người đi một cách liều lĩnh như vậy vì đâu ai biết vách núi sẽ dựng đứng đến mức nào mà mạo hiểm trèo xuống, nhưng như tôi đã nói, hai người hướng đạo tôi thuê đều là những người không hề có kinh nghiệm. Chúng tôi hy vọng có thể đi dọc theo những dòng suối nhỏ dưới đáy thung lũng để tìm lối ra, nhưng khi xuống đến nơi mà chúng tôi tưởng là đáy thung lũng thì tôi mới biết mình đã lầm. Đó chỉ là một bình nguyên hẹp nhô ra trên sườn núi mà thôi. Trước mặt chúng tôi là một vực sâu không đáy với vách đá dựng đứng 90 độ, không ai có thể leo xuống được. Tiến thoái lưỡng nan, chúng tôi đứng lặng người không biết nói sao, hai người hướng đạo cũng quá mệt để tiếp tục cãi nhau.
Đang lúc thất vọng, tôi bỗng thấy một người chăn cừu dẫn đoàn cừu ở đâu xuất hiện. Chúng tôi mừng rỡ hò hét vang nhưng cổ họng người nào người nấy đau buốt, không ai thốt lên được tiếng nào mà chỉ ú ớ nói không ra lời. Nhờ người chăn cừu chỉ lối, chúng tôi mới tìm ra được một lối đi hẹp dẫn xuống đáy thung lũng nằm khuất sau một tảng đá lớn. Hơn lúc nào hết tôi nhận thức rằng người ta không thể mạo hiểm đi trong những rặng núi hiểm trở như thế này mà không có người hướng đạo giỏi. Nếu không gặp người chăn cừu thì dù có tìm cả tháng chúng tôi cũng chưa chắc thấy được lối đi này và tất nhiên người ta không thể sống sót trên một bình nguyên hẹp nằm chơ vơ trong rặng Tuyết Sơn như vậy. Cho đến nay, tôi vẫn không hiểu phép mầu nào đã giúp tôi đi từ Kailas đến Langchen Khambab với hai người hướng đạo chập chững vào nghề, không kinh nghiệm như hai người này.
Gần đáy thung lũng có một cây cầu treo mong manh bắc ngang một dòng suối nước chảy khá siết, căng bằng hai sợi dây thừng lớn đu đưa trên bờ vực. Cây cầu không có chỗ vịn và chòng chành như muốn đứt. Đến khi đó tôi mới thấy hai người hướng đạo này hữu dụng một chút. Họ thong thả dỡ hành lý và thay phiên nhau khuân qua bờ bên kia. Nhìn họ thản nhiên đi trên cầu mong manh tôi mới bắt đầu khâm phục sự bình tĩnh của họ. Dĩ nhiên lũ trâu Yak không thể đi trên cây cầu căng bằng hai sợi dây thừng như vậy nên họ tiếp tục lùa bầy trâu xuống đáy thung lũng rồi xua trâu lội qua suối bằng cách vừa ném đá vừa hò hét. Mặc dù nước chảy xiết nhưng lũ trâu khoẻ mạnh cũng lội qua được. Sau cùng đến lượt tôi run rẩy leo qua cầu vừa đi tôi vừa lẩm bẩm cầu nguyện. Khi đó tôi mới ý thức lý do tại sao người Tây Tạng thường treo cờ quạt có viết những bài thần chú lên những cây cầu. Người dân xứ này tin tưởng vào sức mạnh và hiệu lực che chở của những bài thần chú này còn hơn sự vững chắc của cây cầu. Sống giữa thiên nhiên, họ ý thức rõ rệt sự nhỏ bé, bất lực của con người nên họ đã hoàn toàn đặt sinh mạng mình dưới sự kiểm soát, che chở của các quyền năng thiêng liêng.