Thung lũng Aksobhya có nhiều tảng đá màu sắc long lanh đẹp đẽ, hai bên thung lũng là ngọn đồi lớn, một ngọn đồi có nhiều cổ thụ thân rất to gọi là đồi của đức Bồ Tát Văn Thù; ngọn đồi kia tương đối bằng phẳng hơn với những thảm cỏ màu xanh biếc được gọi là đồi của đức Bồ Tát Phổ Hiền. Người Tây Tạng tin rằng một khi đã chuyển hóa, đã trở nên một con người mới, sau khi sám hối và gột rửa mọi phiền não trên đèo Quán Âm, người ta sẽ được hướng dẫn bởi hai Bồ Tát này. Một vị tượng trưng cho trí tuệ, một vị tượng trưng cho hạnh nguyện. Đây là hai động lực vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết cho những ai bước chân vào con đường đạo.

Sau khi vượt qua hai ngọn đồi này, người hành hương trở về khởi điểm là phía nam của rặng Kailas. Cuộc hành hương chấm dứt trước một bảo tháp bằng đá rất lớn thờ đức Di Lặc, vị Phật tương lai của thế giới. Tại đây những người hành hương làm lễ chiêm bái đức Di Lặc và chúc mừng nhau “Sukhe Bhavanthu” (Hẹn cùng nhau tinh tấn tu hành để trọn thành Phật đạo).

Trong khi hành hương tại bình nguyên Kailas, tôi nghe nói có lối tắt băng qua những rặng núi phía đông vào xứ Guge. Dĩ nhiên tôi rất mừng vì từ lâu tôi vẫn có ý định tìm đến Tsaparang. Sau khi thu tập các dữ kiện cần thiết, tôi nhập bọn với một đoàn khách hành hương đang đi về phương đông. Trải qua mấy ngày đường không thấy một làng mạc nào, chúng tôi đi ngang một tu viện nhỏ nằm khuất trong hẻm núi. Tu viện này được đục sâu vào lòng núi nhưng bức tường quanh nó được xây bằng đá trắng nổi bật giống như những ngôi đền Ai Cập. Người trưởng đoàn cho biết tu viện này mới được xây cất khoảng chục năm nay như những tu viện khác, tôi không thấy một tu sĩ nào ra đón tiếp, bốn bề yên lựng như tờ. Vì trời đã về chiều đoàn người dừng chân, ngả trại tại một cái đồi cát gần đó. Tôi bàn rủ vài người vào thăm tu viện nhưng không hiểu sao ai cũng từ chối. Vì đa số đều nói bằng tiếng thổ ngữ địa phương nên tôi không hiểu họ muốn nói gì, sau cùng tôi quyết định đi một mình.

Đó là một tu viện kiến trúc đặc biệt, khác hẳn những tu viện Tây Tạng mà tôi đã đến thăm viếng. Tôi ngạc nhiên khi không thấy một pho tượng Phật hay Hộ Pháp nào trước cửa cũng như trong khuôn viên tu viện. Lối đi trải da trắng rất đẹp và sạch sẽ nhưng không hiểu sao bốn bề vắng lặng, không một bóng người. Sau khi đi qua một hàng hiện rộng, tôi nhìn thấy bức tranh màu sắc sặc sỡ trên vách nhưng đa số tranh này đều lạ lùng, khác hẳn những bức tranh thường thấy. Phải nhìn kỹ lắm người ta mới thấy trên bức tranh đó có vẽ hình các vị Phật nhưng không hiểu sao người vẽ lại cố tình vẽ các ngài rất nhỏ như một nét thuộc mà thôi. Khi bước lên chánh điện, tôi không thấy một pho tượng Phật nào mà chỉ thấy một chiếc ngai to lớn kê sừng sững trên một bực cao. Có một tu sĩ già đang ngồi thiền trên ngai, ông này mặc quần áo may theo một kiểu kỳ lạ, không giống như y phục của các tăng sĩ thường thấy. Sau khi trao đổi vài câu xã giao, tu sĩ mời tôi dùng trà và hỏi tôi muốn gì. Tôi ngỏ ý muốn thuê một ít lừa ngựa và mướn người hướng đạo dẫn qua các hẻm núi xuyên sơn đến vùng Guge, tu sĩ nhếch miệng cười nhạt không trả lời. Trên nguyên tắc, người ta có thể từ chối nếu không thể giúp đỡ gì hoặc ít ra người ta có thể chỉ dẫn, tìm cho chúng tôi một người hướng đạo nào đó. Hành động cười nhạt không trả lời này làm tôi thấy có một điều gì bất ổn. Phải chăng ông này cho rằng tôi là một kẻ du hành bất hợp pháp? Tôi đưa ra giấy thông hành của sứ quán Anh và giấy chiếu khán có đóng dấu của chính quyền Lhassa như bằng chứng rằng tôi là một du lịch hợp pháp. Vừa nhìn thấy tấm giấy của chính quyền Lhassa, vị tu sĩ nổi giận cười gằn và nói rằng ông ta chẳng dính dáng gì đến chính quyền Lhassa và chính quyền này không thể bắt ông giúp đỡ tôi được. Tuy ngạc nhiên, tôi cũng năn nỉ ông nghĩ tình đồng đạo mà giúp đỡ cho nhưng ông ta khoát tay từ chối nói rằng ông không có dư lừa, ngựa cho thuê.