Qua sự chỉ dạy của các đạo sư Tây Tạng, tôi được biết rằng cái động lực gây chuyển động cái bàn đó không phải là một “đấng vô hình” nào cả mà chính là năng lực phát xuất từ tiềm thức của những người cầu cơ. Tất cả những điều người ta muốn biết đều đã có câu giải đáp sẵn trong tiềm thức và đôi khi câu trả lời chính là điều người ta muốn được nghe, những ao ước thầm kín trong tiềm thức được bộc lộ với những hình thức tế nhị. Nói một cách khác, chẳng phải có bàn đó di động để trả lời mà chính là tâm những người ngồi đó đã di động. Cái năng lực nội tại huyền bí này được phát động qua sự trung gian của đức tin, việc cầu cơ chỉ là một mảnh vụn hết sức thô thiển của một khoa học vẫn được truyền dạy ở Tây Tạng mà tôi sẽ đề cập đến trong một chương sau.
Khi còn trẻ tôi thường ghi nhận những cảm nghĩ của mình lên giấy như một hình thức sắp đặt tư tưởng. Tôi có ý định hoàn tất một truyện dài nội dung đề cập đến những vấn đề mà tôi thắc mắc, suy nghĩ. Tôi viết thử mấy đoạn, soạn sẵn một dàn bài để khi nào rảnh sẽ viết tiếp nhưng rồi tôi không có thời giờ hoàn tất.
Khi lên đại học, tôi học văn chương với một giáo sư, ông này thường khuyến khích sinh viên phơi trải tâm sự của mình lên giấy nên tôi đánh bạo đưa bản thảo truyện viết dở cho ông coi để nhờ ông phê bình. Sau khi đọc qua đoạn văn tôi viết, ông ngạc nhiên kêu lên: “Anh đã chép điều này ở đây vậy? Phải chăng anh chịu ảnh hưởng của văn sĩ…”, ông ta nhắc đến một cái tên lạ hoắc nhưng tôi giật mình vì đó là cái tên mà tôi đã nghe nói đến trong buổi cầu cơ năm ngoái. Tôi kêu lên:
– Kể cũng lạ thật, đây là lân thứ hai tôi nghe nhắc đến cái tên đó…
Tôi kể cho giáo sư nghe về sự kiện đã xảy ra trong buổi cầu cơ. Vị giáo sư im lặng một lúc rồi cho tôi biết rằng đoạn văn mà tôi viết dở dang có những trùng hợp lạ lùng với nội dung quyển sách của một văn sĩ người Đức. Ông này chết khi còn rất trẻ nên không được nổi tiếng lắm, tuy nhiên hầu như mọi người học về văn chương Đức đều ít nhiều biết đến ông này.
Tôi cố gắng giải thích rằng tôi không biết một chút gì về văn sĩ kia cả. Kiến thức văn chương của tôi chỉ giới hạn trong những tác phẩm được giảng dạy trong chương trình giáo dục và dĩ nhiên văn sĩ người Đức kia không hề có tác phẩm nào trong đó.
Vị giáo sư cho biết không những nội dung đã trùng hợp mà ngay cả lối hành văn, cách xuống dòng, chữ viết tắt của tôi cũng ít nhiều giống y như nhà văn nọ. Điều này làm tôi vô cùng bối rối nên tối nhờ ông ta mua dùm tác phẩm đó để tôi xem qua.
Trước khi nhận được tác phẩm đó, một sự lạ khác đã xảy ra. Hôm đó tôi tham dự một bữa tiệc cưới. Trong những quan khách của buổi tiệc có một giáo sư người Đức, ông này có họ hàng chi đó với chủ nhà nên không quản ngại đường xá xa xôi từ bên Đức đến tham dự bữa tiệc. Khi tôi vừa bước vào phòng thì đã thấy ngay cặp mắt kinh ngạc của vị giáo sư kia, ông ta nhìn tôi chăm chú như bị thu hút khiến tôi đâm ra lúng túng. Trong suốt buổi tiệc, ông ta cứ đăm đăm theo dõi tôi nên tôi chỉ ăn qua loa rồi cáo từ, lòng không khỏi bực bội về người khách bất lịch sự đó.
Vài hôm sau tôi có dịp gặp lại chủ nhân bữa tiệc, bà chủ cho biết vị giáo sư kia cứ hỏi đi hỏi lại về thân thế của tôi. Ông ta đang soạn tiểu sử một văn sĩ người Đức từ trần cách đó mấy chục năm và nói rằng tôi trông giống văn sĩ nọ vô cùng, từ cử chỉ đến lời ăn tiếng nói. Mặc dù bà chủ không nhớ cái tên của văn sĩ đó nhưng tôi đã đoán ra ít nhiều, tôi trở về nhà lòng vô cùng xúc động.
Khi vị giáo sư văn chương trao cho tôi cuốn sách của văn sĩ nọ thì tôi nhận ngay rằng chính đó là cuốn sách “của tôi”. Không những cách sắp đặt, cấu kết, nội dung giống y hệt cuốn truyện tôi đang viết dở mà càng đọc tôi càng thấy cuốn sách đó phô diễn rõ rệt tất cả tư tưởng thầm kín của chính mình. Cuốn sách đề cập đến cái lý tưởng mà tôi hằng theo đuổi thời niên thiếu là trở nên một học giả nghiên cứu tất cả mọi môn học, từ thiên văn đến địa lý, từ toán học đến vật lý, từ triết học đến nghệ thuật, để có thể có một cái nhìn tổng quan về đời sống.
Dĩ nhiên tôi ý thức rằng cuộc đời qúa ngắn và đầu óc con người có giới hạn, không ai có thể trở thành một cuốn từ điển sống được nên tôi chỉ chú trọng vào một môn học mà tôi ưa thích là triết học. Từ triết học tôi say mê thần học và rồi xoay ra nghiên cứu tôn giáo, công cuộc nghiên cứu đưa tôi đến với Phật giáo và tôi đã phát nguyện trở nên một tăng sĩ…
Nhìn lại cuộc đời đã qua, tôi thấy rằng mình đã đi đúng con đường vì những điều tôi chưa thực hiện được ở kiếp này, tôi sẽ có cơ hội ở một kiếp khác. Tôi hiểu rằng không một tư tưởng nào sinh ra lại mất đi, tất cả đều được lưu trữ dưới hình thức những chủng tử và tùy theo nhân duyên thích hợp nó sẽ phát sinh.
Cũng như thế, một ý chí cương quyết, một hạnh nguyện to lớn sẽ là những động cơ thúc đẩy con người tiếp tục tiến bước trên con đường họ đã chọn. Con đường của Phật giáo là giải thoát ra khỏi luân hồi sinh tử và đó là con đường tôi đã chọn khi xuất gia. Tôi biết mình không thể thay đổi các nhân đã gieo trong qúa khứ, không thể lẩn tránh hậu quả của những nhân này nhưng tôi cố gắng tu sửa thân tâm, gieo vào tàng thức những tư tưởng tốt lành, những mầm mống vị tha. Nhờ chuyên tâm quán tưởng về những hạnh nguyện đã phát, nhớ mãi hình ảnh của đấng Đại Từ Bi, năng hỷ xả như ngọn đuốc soi đường, nhờ chuyên trì niệm hồng danh chư Phật, các chủng tử này sẽ tăng trưởng để một lúc nào đó sẽ phát sinh, hiện hành đưa tôi đến bến bờ giải thoát.
Tuy chọn con đường của một tu sĩ nhưng sau một thời gian tôi thấy mình không thích hợp với tôn chỉ của Nam tông. Tôi không thích nếp sống thoải mái trong những ngôi chùa yên tĩnh, những kỷ luật cứng nhắc, những kiến thức từchương. Hòa thượng Tomo đã giúp tôi tìm thấy một con đường mới, một nếp sống phóng khoáng mà tôi đã phát nguyện tu theo hạnh đầu đà (Anagarika). Đây là một nếp sống chủ trương lánh mình trong cô tịch, chú trọng nhiều về sự phản quang tự kỷ bằng tri giác nội tại. Kinh nghiệm đời sống như nó là và nương tựa vào năng lực gia trì của các vị tổ Mật tông. Tôi không lưu trú ở một nơi chốn nào nhất định, không sở hữu bất cứ một thứ gì mà chỉ có ba bộ quần áo cần thiết và một chiếc bình bát. Hòa thượng Tomo đã nói: “Trước khi có thể giúp người khác, ta hãy tự giúp mình. Trước khi xứng đáng ngồi trên toà Như Lai giảng pháp, ta hãy kết thảm cỏ ngồi trong động đá để quán tưởng về sự vô thường, lý vô ngã. Trước khi bước vào đời để cứu giúp chúng sinh ta hãy quay vào bên trong để nghe tiếng gọi của Chân tâm, và chỉ khi đã chứng được sự thanh tịnh tuyệt đối ta mới có thể nhập thế gian mà không sợ sa ngã. Một người đang chết đuối không thể cứu một người khác cũng đang chết đuối. Một người mù không thể dẫn dắt kẻ đui. Đừng hấp tấp lo giúp đỡ kẻ khác khi chính mình chưa giúp đỡ nổi cho mình, làm sao ta có thể biết chắc rằng sự giúp đỡ đó hoàn toàn vô vị lợi? Làm sao ta biết rằng mình không tự lừa dối mình? Một việc làm cao đẹp tự nó chỉ có nghĩa khi nó được làm bởi một cái tâm vị tha chân thật. Nếu không cố gắng đạt đến mục đích là thoát khổ thì những nghi thức chỉ là sợi dây trói buộc, lời ta khuyên bảo chỉ là những âm thanh trống rỗng. Hãy tập trung năng lực để suy ngẫm, quán tưởng về việc giải thoát, đừng lo lắng về nơi ăn chốn ở vì nó chỉ ràng buộc. Đừng quan tâm về chứng đắc vì nó chỉ là ảo tưởng. Chỉ khi nào bước vào cuộc đời làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã. Nếu con không để bị vướng mắc, không để bị mong cầu sở đắc một điều gì, thì con sẽ hiểu được điều ta nói: “Vào đời nhưng không rời Tự Tánh, nhập thế nhưng không rời Niết Bàn…”

Trả lời với trích dẫn