Nếu tiếp tục lẫm lũi đi suốt đêm cho đến sáng thì người ta sẽ đến một đèo cao, ẩn hiện sau những giải mây trắng. Người hành hương ý thức rằng họ đang bước vào một thử thách cuối cùng. Họ đã suy nghẫm về sự chết, về vòng luân hồi, về những khổ đau cũng như nguyên nhân của đau khổ và ý niệm về bản ngã. Muốn giải thoát, người ta phải biết cởi bỏ cái bản ngã này, nhưng cởi bỏ không phải từ bỏ không phải từ bỏ hay phủ nhận bản ngã mà trái lại phải chuyển hóa nó. Nhưng phải chuyển hóa như thế nào? Giữa đường đèo có một phiến đá lớn bằng phẳng như một tấm gương người Tây Tạng gọi là gương Yama (Mirror of Yama). Yama vừa là thần chết, vừa có nghĩa là những sự bí mật, đôi khi Yama còn được coi như vị thần ghi chép tất cả mọi sự việc xảy ra trên thế giới này. Chính tại đây người hành hương bắt đầu ngồi xuống để hồi quang tự kỷ, để suy nghĩ về những hành vi qúa khứ của mình, để quán xét về hành động, lời nói hay tư tưởng của mình, để quán xét về hành động, lời nói hay tư tưởng của mình từ trước đến nay. Tại đây người hành hương quán xét về sự liên hệ của họ với những người chung quanh, người thân thuộc và những người không quen biết, người họ yêu cũng như người họ ghét và đào sâu vào nội tâm để tìm hiểu nguyên nhân vì sao họ yêu, vì sao họ ghét, vì sao họ lại hành động như họ đã hành động. Sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng, họ có thể kết luận rằng sở dĩ họ đã hành động như vậy vì thiếu ý thức, vì bản ngã hoặc một động năng nào đó v.v… Sau khi hiểu rõ được nguyên nhân, họ bắt đầu nghi thức sám hối, cầu nguyện và tự hứa sẽ ăn năn, thay đổi. Người Tây Tạng tin rằng hành động sám hối có thể xóa sạch mọi tội lỗi nếu từ đó trở đi người ta không tái phạm nữa.

Một khi đã ý thức thật rõ rệt nguyên nhân của hành động trong qúa khứ và biết ăn năn tội lỗi thì cuộc đời của họ đã được chuyển hóa, đã vượt lên một bình diện khác không còn một mặc cảm tội lỗi nào nữa. Người ta thường để lại nơi đây một lọn tóc, một mảnh vải nhỏ xé từ áo ra hay một vật gì để tượng trưng cho việc dứt bỏ những việc đã qua. Sau đó họ bắt đầu leo lên những dốc núi thoai thoải cho đến khi lên đến đỉnh đèo thì sẽ thấy một hồ nước trong vắt: Hồ Từ bi. Khách hàng hương thường rửa mặt trong hồ này như một hành động xóa sạch những ưu phiền qúa khứ. Người Tây Tạng tin rằng nước hồ xuất phát từ tịnh bình của đức Quán Thế Âm nên có công hiệu xóa sạch mọi phiền não, khổ đau và an ủi những người còn sợ hãi.

Sau khi nghỉ ngơi nơi đây ít lâu chờ mặt trời mọc khách hành hương bắt đầu đổ dốc để xuống bình nguyên Aksobhya chuyến đi này tượng trưng cho sự tái sinh trở lại thế gian nhưng lần này người hành hương không còn sợ hãi nữa. Họ đã hiểu biết chính mình, ý thức việc làm của mình và đã chuyển hóa lòng ích kỷ thành tình thương vị tha. Họ biết mình trở lại thế gian để phụng sự, để cứu độ chúng sinh, để tu hành, để thực hành những điều đã chứng ngộ, để áp dụng những nguyên tắc đã học hỏi chứ không phải trở lại một cách thụ động, để lặn ngụp trong sinh tử luân hồi nữa. Người Tây Tạng tin rằng quanh hồ Kailas có rất nhiều hang động của các vị Phật, Bồ Tát đang tu hành, do đó bình nguyên này đã thấm nhuần các luồng tư tưởng tốt lành mà trở nên thiêng liêng. Một người hành hương biết hướng tâm lên những điều cao thượng tốt lành sẽ được chư Phật, chư Bồ Tát chứng giám, sẽ nhận được sức gia trì của các luồng thần lực này.

Trước khi bước vào bình nguyên Aksobhya, người ta còn đi qua một hang đá lớn cây cối um tùm, nơi ngày trước vị thánh Tây Tạng đức Milarepa đã tu ở đó. Milarepa là một nhân vật lịch sử được người Tây Tạng vô cùng sùng kính. Có nhiều huyền thoại thêu dệt quanh cuộc đời vị này mà người ta có thể kể từ ngày này qua ngày khác như kể chuyện cổ tích vậy.

Người ta nói rằng một hôm Milarepa đang tu tại đây thì gặp một pháp sư đạo Bon đến thách thức. Vị pháp sư này khoe rằng ông luyện được phép khinh công tuyệt đỉnh và thách Milarepa chạy đua lên đỉnh Kailas. Milarepa nhận lời nhưng khi vị pháp sư kia quay mình phóng vùn vụt trên những vách đá dựng đứng thì Milarepa vẫn ngồi yên trong tư thế thiền định, không hề nhúc nhích. Khi chạy gần đến đỉnh nủi, vị pháp sư kia quay lại thì nhìn thấy Milarepa ngồi yên, ông này yên chí rằng mình đã thắng cuộc vì Milarepa dù tài giỏi đến đâu cũng không thể bắt kịp nữa. Lúc đó mặt trời vừa mọc, những tia nắng đầu tiên bắt đầu rọi trên đỉnh núi phủ đầy tuyết trắng. Milarepa tập trung tư tưởng hòa mình vào luồng sáng này nên chỉ trong chớp mắt ông đã đứng sững trên đỉnh núi rồi. Thấy vậy, vị pháp sư kia kinh hãi suýt ngã nhào xuống vực nếu Milarepa không nhanh tay đỡ lấy ông ta. Cuộc đời của Milarepa là một tấm gương hy sinh, nhẫn nại, can đảm, chịu đựng phi thường để cầu đạo. Ông là một tu sĩ huyền thuật, có nhiều pháp thuật cao cường nhưng ông ý thức được hành động tội lỗi của mình nên đi tìm Marpa, một đạo sư Mật tông trứ danh để cầu đạo giải thoát. Trải qua nhiều biến cố và thử thách, ông đã đạt đạo quả. Ông thu nhận học trò và làm rạng danh dòng tu Kargyupa. Phần lớn học trò của ông đều mặc áo rách (Repas), ẩn mình nơi chốn hoang vu, cô tịch để trì tụng những bài thần chú khẩu truyền, để quán tưởng hoặc trì niệm danh hiệu Lạt Ma Ajo mà tôi đã đề cập ở chương trước.

Người ta nói rằng vì Milarepa chỉ ăn rong rêu qua ngày nên da thịt của ông trở nên xanh xám như màu rêu. Ông thường nấu rong rêu trong một cái nồi bằng đất cho đến khi cái nồi này cũ qúa đã thủng cả đáy, không sử dụng được nữa. Thay vì ngồi tiếc cái nồi đất, ông đã cảm khái làm một bài thơ ngụ ý nói rằng ngay cái nồi thủng đáy đó cũng là một vị thầy của ông vì nhờ nó mà ông ý thức rõ hơn được rằng tất cả mọi vật trên thế gian đều vô thường, không có gì thể trường tồn mãi mãi, do đó người ta cần tận dụng mọi hoàn cảnh để lo tu hành hầu thoát khỏi tử sinh luân hồi. Người Ấn Độ tin rằng Milarepa chính là hóa thân của thần Shiva vì vị thần này cũng có thân thể màu xanh như vậy. Milarepa ngâm ngàn bài thơ, bài hát bất hủ. Hầu như người Tây Tạng nào cũng đều thuộc lòng nhiều bài thơ, bài hát của ông. Khi đi ngang qua hang động của Milarepa, nhưng người hành hương đã ngưng lại đó để ca hát hoặc ngâm lại những bài thơ của ông như để tán thán tinh thần phóng khoáng, vô úy của một bậc thánh.