DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 2/11 ĐầuĐầu 1234 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 11 tới 20 của 101
  1. #11
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    Cũng như thế, danh từ “chela” thường được dịch là học trò (Pupil) những người học trò theo đúng nghĩa không phải chỉ cắp sách đến trường, học hỏi các kiến thức với một vị thầy mà còn là một người có đời sống đã được ràng buộc vào đời sống của vị thầy. Sự liên hệ thày trò được nố liền bởi một cây cầu tâm thức vô cùng đặc biệt. Nhờ những câu thần chú (Mantra) mà học trò có thể liên lạc với vị thầy bất cứ tại đâu và lúc nào. Cũng vì những lý do đặc biệt này, một vị thầy luôn luôn lựa chọn học trò rất kỹ qua những thử thách đặc biệt để xem học trò có xứng đáng nhận lãnh những kiến thức này không? Phần lớn những thử thách (initiate) được diễn ra vô cùng thâm thúy và tế nhị. Nó không phải là một kỳ thi, một cuộc khảo sát mà đôi khi chỉ là những câu nói, những lời đề nghị. Tùy theo câu trả lời hoặc hành động của học trò mà vị thày biết được đã đến lúc học trò đủ sức học hỏi hay còn phải chờ thêm một thời gian nữa.

    Kachenia cho biết đã đến lúc vị Đại Lạt Ma, sau một thời gian nhập thất sẽ rời am thất ra ngoài. Vị Đại Lạt Ma này không phải ai khác mà chính là vị Hòa thượng làng Tomo, vị Lạt Ma lừng danh khắp Tây Tạng. Dĩ nhiên lúc dó tôi không biết gì về ngài và cái tên Tomo Geshe Rinpoche không gây cho tôi một ấn tượng gì mấy, tôi chỉ lờ mờ hiểu rằng đó là một vị Lạt Ma tu hành công phu và đáng kính mà thôi.

    Sáng hôm đó, một bầu không khí khác lạ đã diễn ra trong tu viện. Tự nhiên số tăng sĩ bỗng trở nên đông đảo hơn ngày thường. Tôi không hiểu các tăng sĩ từ đâu đến vì tôi không hề nhìn thấy họ trong tu viện này. Có thể họ ở gần hoặc vẫn tĩnh tu trong các mật thất trên núi. Ngay cả những vị tăng sĩ mà tôi quen biết cũng thay đổi trang phục vô cùng tề chỉnh. Họ yên lặng kéo nhau đến chánh điện, nét mặt người nào cũng lộ vẻ rạng rỡ như chờ đợi một điều gì. Mùi nhang trầm xông lên thơm ngào ngạt, đèn nến được thắp khắp nơi sáng trưng.

    Một tiếng chuông ngân dài rồi cánh cửa chính bỗng mở rộng, hai hàng Lạt Ma trưởng lão thong thả bước vào, chính giữa là một vị Lạt Ma đã già những nét mặt vô cùng hiền từ, khoác một chiếc áo vàng được vá lại bằng hàng trăm mảnh vải nhỏ: Hòa thượng Tomo.

    Lạt Ma Tomo bước đến trước pho tượng đức Di Lặc, hai tay chắp lại giơ cao lên trên trán bằng một cử chỉ trang nghiêm, thành kính rồi cúi rạp người xuống đảnh lễ. Một tiếng chuông thong thả ngân lên. Ngài đi một vòng quanh các pho tượng Bồ Tát và tiếp tục nghi thức đảnh lễ cho đến khi đi hết một vòng chánh điện rồi mới bước lên chiếc bục gỗ thấp gần đó, ra hiệu cho các tăng sĩ cùng ngồi xuống. Một sự tĩnh lặng bao trùm lên khắp chánh điện, hầu như ai cũng cảm thấy một sự bình an tràn ngập trong lòng, một niềm phúc lạc vô biên không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Đó là lần đầu tiên tôi thực sự kinh nghiệm được ý nghĩa của sự bình an.

    Vị Lạt Ma trụ trì thong thả đứng lên ra hiệu và khóa lễ bắt đầu với những nhạc khí cùng trổĩ lên một lượt…

    Đối với người Tây phương, âm nhạc chỉ được sử dụng như một hình thức diễn tả tình cảm con người. Đối với người Tây Tạng, âm nhạc lại đóng vai trò quan trọng hơn vì tính chất thiêng liêng của nó.

    Tôi không phải là một nhà nhạc học, dĩ nhiên kiến thức của tôi về âm nhạc không có gì đáng kể những tôi đã đọc một vài tài liệu của người Tây phương viết về âm nhạc Tây Tạng và thấy rằng những tác giả đó đã có những sai lầm đáng tiếc.

    Đa số đều nhận xét âm nhạc của Tây Tạng dưới quan niệm của người Âu nên cho rằng âm nhạc Tây Tạng thiếu tổ chức, không theo các âm luật thông thường. Dĩ nhiên âm nhạc Tây Tạng không được phân chia theo luật lệ của người Âu những điều này không có nghĩa nó thiếu tổ chức. Trái lại, nó được sắp đặt theo những luật lệ riêng biệt mà một người Âu thiếu kiến thức về tôn giáo không thể hiểu được.

    Đời sống người Tây Tạng gắn liền với tôn giáo, xã hội Tây Tạng xây dựng trên nền tảng tôn giáo từ mấy ngàn năm nay nên âm nhạc của xứ này cũng phát xuất từ tôn giáo. Tuy nhiên đối tượng của âm nhạc Tây Tạng không phải để ca tụng một đấng tối cao nào đó hay kêu gọi lòng sùng tín là sự diễn tả những âm thanh một cách trung thực như nó là (asis). Âm nhạc Tây Tạng không hề được sử dụng vào bất cứ mục đích nào có tính cách cá nhân mà nhằm vào một đối tượng có tính cách rộng rãi, bao quát hơn nhiều. Do đó nó không diễn tả niềm vui, nỗi buồn như ta thường thấy ở các loại âm nhạc khắp thế giới mà chỉ lập đi lập lại những âm thanh rời rạc trong một giới hạn nào đó. Cũng vì thế nó cần phải có sự hòa hợp của nhiều loại nhạc khí khác nhau để tạo thành bản nhạc và đây là một điểm đặc biệt, ít người để ý đến. Nhạc khí Tây Tạng không hề được sử dụng để độc tấu mà luôn luôn hợp tấu. Vì những lý do nào đó, âm nhạc Tây Tạng thường chú trọng đến các rung động sâu xa (deepest vibrations) nên đa số nhạc khí là loại cồng, chuông, trống, tù-và và kèn nhiều hơn các loại đàn dây (strings).




  2. #12
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    Người ta không thể hiểu âm nhạc Tây Tạng nếu không biết đến Thần Chú (Mantra) vì bài nhạc nào cũng được sắp đặt làm sao để có những âm thanh rung động thật trầm, thật sâu như tiếng phát âm của những câu thần chú. Sự sắp đặt về âm thanh của âm nhạc Tây Tạng dường như phản ảnh một lý thuyết rằng âm thanh là một sức mạnh hết sức nhiệm mầu. Nếu một âm thanh phát ra đúng cách có thể phá vỡ một cái ly thủy tinh thì sự phối hợp âm thanh bằng những tiết điệu đặc biệt có thể tạo ra các quyền năng siêu hình, huyền bí, ảnh hưởng đến các cõi giới xa xăm nào đó.

    Căn bản của dàn hòa tấu nào cũng gồm có một cặp tù-và (Radongs) dài khoảng 4 thước, phát ra những âm thah vừa trầm, vừa ngân nga như tiếng sóng biển. Hai nhạc công thay phiên nhau thổi làm sao để âm thanh trầm này không bao giờ dứt và bất cứ bản nhạc nào cũng khởi đầu và chấm dứt bằng âm thanh của cặp tù-và này.

    Đối với các tăng sĩ xuất than từ Tích Lan như tôi thì việc sử dụng nhiều nhạc khí trong các khóa lễ quả là một điều lạ lùng. Tôi chỉ quen nghe tiếng chông và mõ thôi nên lúc đầu hơi khó chịu vì tiếng kèn, tiếng tù-và, tiếng trống, những về sau tôi thấy đây là một đặc điểm hết sức tinh tế có thể trợ giúp cho buổi lễ thêm phần long trọng và hướng dẫn tinh thần người hành lễ vượt lên một bình diện cao hơn.

    Quan niệm Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) cho rằng âm nhạc chỉ là một thứ để tiêu khiển, giải trí nên đời sống tôn giáo không cho phép các tu sĩ nghe nhạc hay mang âm nhạc vào tôn giáo. Có lẽ vì vậy nên cuộc sống tu hành được coi là khổ hạnh, tình cảm được kiềm chế, kiến thức về sách vở, từ chương được đề cao hơn kinh nghiệm tâm linh. Sự bảo thủ này đã đưa Phật giáo nguyên thủy vào một lối sống chật hẹp, gò bó không phóng khoáng thoải mái như Phật giáo Đại Thừa.

    Tôi không thể diễn tả nỗi vui mừng của mình khi đứng trước mặt vị Lạt Ma nổi tiếng của Tây Tạng, người có khả năng mang lại bình an cho tất cả mọi người.

    Cuộc gặp gỡ chúng ta diễn ra trong căn phòng nhỏ của ngài. Như tất cả những căn phòng khác tại tu viện này, căn phòng được bày biện hết sức giản dị với một chiếc ghế rộng dùng để thiền định. Đa số các vị Lạt Ma cao cấp đều sử dụng một chiếc ghế tương tự để ngồi thiền, gần như không bao giờ họ nằm nên không phòng nào có giường ngủ cả. Họ ngồi đó trong tư thế liên hoa giờ này qua giờ khác, đắm mình trong trạng thái thiền định khi không tiếp xúc với ai. Chiếc ghế của Hòa thượng Tomo có khắc một bánh xe Phật và một đám mây ngũ sắc, nét khắc sắc sảo trông rất linh động. Tất cả những đồ đạc khác trong nhà đều có tính cách tôn giáo: một lư hương, một cái chuông và một cây tích trượng (seeptre) bằng đồng v.v… Hòa thượng Tomo không sở hữu bất cứ vật gì. Khi di chuyển từ chùa này qua chùa khác, ngài chỉ mang theo một ít vật dụng tối thiểu. Đối với ngài, một hang đá đơn sơ cũng không khác gì một dinh thự nguy nga, một căn phòng đầy đủ tiện nghi lộng lẫy không hơn gì một căn phòng trơ trụi với một chiếc ghế mộc mạc. Tất cả những đồ vật người ta cúng dường cho ngài đều được mang ra phân phát đều cho các tăng sĩ hoặc xung vào qũy của chùa. Tuy đi khắp nơi, trú ngụ nhiều chỗ những tôi không bao giờ thấy ngài mang theo bất cứ một vật gì nhận lãnh của tín đồ. Ngài tu theo hạnh Đầu Đà (Anagarika) chủ trương tuyệt sở hữu và ít khi lưu lại nơi nào lâu dài.

    Hôm đó tôi đã qùy trước mặt ngài lãm lễ ra mắt và ngài đã đặt bàn tay lên trán tôi trong cử chỉ ban ân huệ. Toàn thân tôi như chìm trong niềm phúc lạc tuyệt vời, tất cả những câu hỏi, lời nói tôi định thốt ra bỗng tiêu tan hết vì tôi đã nhận được câu trả lời, không bằng ngôn ngữ nhưng bằng một sự giao cảm thần bí. Tôi lặng người trong sự bình an mà ngôn ngữ không thể nào diễn tả trong một thời gian rất lâu.

    Hòa thượng Tomo ngồi yên trên chiếc ghế bằng gỗ, tôi không thể đoán ngài bao nhiêu tuổi. Có lẽ khoảng ngoài sáu mươi. Ngài có một khuôn mặt tròn lúc nào cũng lộ vẻ tươi cười khiến mọi người cảm thấy yên tâm, thoải mái trước sự hiện diện của một người như vậy.




  3. #13
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    Một điều lạ cũng cần được nêu ra, Hòa thượng Tomo không thích ai chụp ảnh ngài. Tất cả những người công khai hoặc lén lút chụp ảnh ngài đều thẩy rằng tấm ảnh họ chụp hoặc trắng tinh như chưa hề chụp, hoặc chỉ thấy những đồ đạc chung quanh nhưng không bao giờ thấy ngài. Ngài không thích sự tôn sùng cá nhân và không muốn trở nên một đối tượng cho những việc này.

    Hôm đó, sau khi làm lễ nhập môn cho tôi xong, ngài đã nói ngay;

    – Nếu con muốn làm thầy của con thì con đừng nhìn cái thân thể vô thường, nay còn mai mất này như vị thầy của con. Chúng ta đều là những kẻ bất toàn, thay vì nhìn vào những điểm bất toàn này, con hãy nhìn thẳng vào Phật tính vốn hoàn hảo và hiện diện trong tất cả các chúng sinh. Thay vì chấp nhận những điều ta chỉ dạy cho con như điều đó đến từ ta thì con phải coi đó là những chân lý vẫn hằng có trong vũ trụ, mà đức Phật Thích Ca đã chứng ngộ được và giảng giải trong giáo pháp của ngài. Ta chỉ là một kẻ tuân theo những giáo pháp đó mà đi, theo ngọn đuốc mà đức Phật Thích ca đã soi đường khi con qùy lạy trước mặt ta mà hãy nghĩ đến đức Phật Thích Ca, người đã khai ngộ cho tất cả chúng sinh vì chỉ có ngài là người duy nhất được hưởng tất cả mọi sự tôn kính đó. Đừng nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà quên đi luồng ánh sáng tuyệt vời phát xuất từ mặt trăng. Đừng trông cậy vào ta như người sẽ đưa con đến chân lý mà hãy trông cậy vào chính con, trông cậy vào cái Phật tính luôn luôn tiềm tàng sẵn nơi con để hướng dẫn con trên con đường về bến Giác. Đừng nhìn vào thân thể này, bộ áo này hay những điều ta nói như một sự thật tuyệt đối mà hãy chứng nghiệm nó nghi ngờ nó, xét đoán nó cho đến khi không còn nghi ngờ hay thắc mắc nào. Đừng vì qúa cung kính hay lễ phép mà không dám đặt câu hỏi vì như vậy là con đã mất đi một cơ hội để tiến gần hơn đến sự thật.

    – Điều quan trọng nhất mà con phải biết là tất cả mọi chúng sinh đều có khả năng thành Phật, đều có sẵn Phật tính trong mình, chỉ vì mê lầm không nhận rõ tính chất cao quý thiêng liêng nơi mình mà chúng sinh mới bị mê đắm vào vòng đau khổ.

    Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính nên tất cả chúng sinh đều tuyệt đối bình đẳng, không có gì sai khác. Nếu con tự cho rằng mình cao cả hơn kẻ khác và có thái độ khinh bỉ với họ thì con không thể nào tiến xa trên đường giải thoát. Con phải biết rằng lý do chúng ta sống trong cái thế giới bất toàn này vì chúng ta còn bất hoàn và tất cả mọi sự xẩy ra đều chịu sự chi phối của luật Nhân Quả. Bằng thái độ sống chân chính, con có thể vượt qua các khó khăn trở ngại, thay thế những sự kiện bất toàn bằng những điều toàn vẹn và nhờ thế không những con trở nên vẹn toàn hơn mà còn biến thế giới này thành tốt đẹp hơn nữa.

    Biết tôi là một tăng sĩ đã dành nửa đời người nghiên cứu giáo lý và kinh điển Phật giáo, Hòa thượng Tomo không đề cập đến các giáo điều mà đi thẳng vào việc thực hành thiền định mà ngài cho rằng quan trọng hơn các lý thuyết.

    Theo ngài thì trước khi bước chân vào con đường tu thiền, một người phải trau dồi thân khẩu ý cho thật trong sạch. Chỉ khi nào giữ vững được thân khẩu ý thì mới nên bước chân vào con đường tu thiền. Bước đầu của việc tu thiền là làm nẩy nở lòng từ bi nơi mình vì đó là điều kiện quan trọng nhất. Thiếu điều kiện này thì việc tu thiền không những sẽ không mang lại kết quả gì mà còn rất nguy hiểm về sau vì chỉ có từ bi mới giúp ta vượt qua các trở ngại gây nên bởi các tình cảm ích kỷ và các giới hạn chật hẹp của tri thức. Để đạt đến thái độ này, người tu thiền phải coi tất cả mọi chúng sinh như người thân trong gia đình vì không một sinh vật nào trong vũ trụ này mà không có sự liên hệ với nhau trải qua vô lượng, vô số kiếp sống luân hồi. Ngoài ra người tu thiền còn phải ý thức thật rõ rệt từng giây từng phút mình đang sống, từ cử chỉ từng lời nói tất cả đều phải được hướng dẫn rõ rệt bằng nội tâm chứ không thể sống một cách máy móc, vô ý thức. Ngài nhấn mạnh rằng thiền định là một lối sống chứ không phải là một phương pháp để thực hành trong những lúc rảnh rỗi, những khi không có việc gì để làm. Đây là một điểm hết sức quan trọng của Đại Thừa vì Thiền chính là sống, sống đúng, sống thật với ý nghĩa của sự sống. Tiểu Thừa và các môn phái Yoga của Ấn Độ thường tách rời thiền định (meditation) ra khỏi cuộc sống và biến nó thành một phương pháp (technique) hơn là một lối sống.

    Vì không phải là một kỹ thuật, phương pháp, người ta không thể học hỏi nó qua sách vở mà phải có sự hướng dẫn trực tiếp của một vị thầy. Do đó thiền định còn là kinh nghiệm tâm linh giữa thầy và học trò mà trong đó người học trò cố gắng đặt tâm thức của mình hòa hợp vào tâm thức của vị thầy.

    Để đạt điều này, người tu thiền phải luôn luôn nghĩ đến đức Phật như ngài đang hiện diện trong y chứ không phải bên ngoài. Bất cứ sự mong cầu một quyền lực nào bên ngoài cũng đều là những vọng niệm cần phải loại trừ vì không một uy lực nào bên ngoài có thể giúp chúng ta, ngay chính sự mong cầu một điều gì dù là sự bình an, niềm lạc phúc cũng đã là một vọng niệm rồi. Chỉ khi nào người tu thiền ý thức rõ rệt rằng đức Phật ngự trị ở bên trong thì họ mới có thể hiểu trọn ý nghĩa câu thần chú linh thiêng “Om Mani Padme Hum”. Chỉ khi lòng từ bi hoàn toàn khai mở như một bông sen (Padme) vươn lên khỏi vũng bùn và bắt đầu khai hoa thì hương thơm của Trí tuệ (Mani) mới bắt tỏa ra khắp nơi và mọi hành động: Thân, Khẩu và Ý (Om) mới thật sự phản ảnh trọn vẹn đúng cái ý nghĩa cao đẹp nhất của sự sống (Hum).

    Khi lòng từ bi phát triển trọn vẹn, người tu thiền không còn ao ước sự giải thoát cho chính mình nữa mà thấy mình và chúng sinh không hề sai khác, mình với tất cả chúng sinh chỉ là một và khi chúng sinh còn vướng mắc trong vòng đau khổ thì làm sao mình có thể giải thoát được?




  4. #14
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    Khi trí tuệ đã phát triển trọn vẹn thì làm sao mình có thể lầm lạc, có thể hành động trái với luật thiên nhiên, trái với chân lý được? Khi mọi vật đều sáng tỏ, không còn vô minh, tất cả mọi sự thật đều phơi bày rõ ràng thì đâu còn êm đắm, đâu còn khổ đâu. Khi từ bi và trí tuệ đều phát triển trọn vẹn thì không còn sự phân biệt nữa. Từ bi cũng là trí tuệ mà trí tuệ cũng là từ bi và người tu đã chứng đắc, đã đi vào con đường Trung Đạo, thấy rõ bản thể chân như của sự vật: Tất cả đều là một, hình tướng tuy khác nhưng thể tánh chỉ có một. Đó là ý nghĩa câu kinh “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”.

    Điều may mắn nhất cho tôi là trước khi được Hòa thượng Tomo dạy dỗ, tôi đã được chuẩn bị kỹ lưỡng bởi Kachenia. Ngoài ra tôi còn quen một vị Lạt Ma gốc Mông Cổ tên là Thubden Serab vốn thông thạo cả Anh ngữ lẫn Tạng ngữ.

    Thubden là một Lạt Ma trưởng lão đã tu học ở Lhassa hơn hai mươi năm, được phong làm Hòa thượng (Goshe) và đại diện cho Giáo hoc Tây Tạng tại Trung Hoa. Tại đây ông đã giúp học giả Von Stael holsen trong công trình khảo cứu Phật giáo nên có cơ hội học hỏi thêm về Anh ngữ.

    Vì Thubden muốn học Pali nên tôi đề nghị ngay một sự trao đổi: ông ta dạy tôi tiếng Tây Tạng và tôi giúp ông về Pali.

    Nhờ Thubden làm thông ngôn, tôi có thể nói chuyện dễ dàng hơn với Hòa thượng Tomo nhưng về sau tôi mới biết rằng ngài không cần ai thông dịch cả. Ngài có thể đọc rõ tư tưởng của tôi như mở một cuốn sách và ngài cũng không cần phải sử dụng ngôn ngữ để giải thích một điều gì vì khi tôi thiền định, ngài có thể gieo vào tâm tôi những tư tưởng tốt lành nhờ thế tôi có thể chứng nghiệm được những điều ngài muốn nói.

    Khi Hòa Thượng Tomo chấp nhận tôi làm đệ tử và truyền cho tôi câu thần chú đầu tiên thì tôi bỗng ý thức rằng từ trước đến nay nếp sống tu hành của mình vẫn còn một thiếu sót rất lớn: kinh nghiệm tâm linh. Đây là một kinh nghiệm không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, không thể suy xét bằng lý luận, không thể nghĩ bằng triết lý những là một kinh nghiệm trực tiếp, một bằng chứng hùng hồn cho người đi trên đường Đạo biết rằng điều mà họ đang theo đuổi không phải chỉ là một giải thuyết xa vời, một ý tưởng trừu tượng những là một điều mà người ta có thể đạt được, kinh nghiệm được.

    Nhiều người đã hỏi tôi nếu đã kinh nghiệm được thì tại sao lại không thể diễn tả? Theo sự hiểu biết của tôi thì chuyển động của tâm thức cũng như sự chuyển động của ánh sáng, tất cả những gì nắm bắt láy nó đều chỉ là ảo vọng vô ích vì cái ý tưởng nắm giữ một vật hằng chuyển chỉ là một quan niệm điên rồ.

    Sự tĩnh lặng của tâm hồn không có nghĩa là sự bất động của tâm thức hay ngăn giữ nó đứng yên nhưng là một trạng thái mà tâm thức thực sự tự do không bám víu, ràng buộc hay vướng mắc vào đâu cả. Điều này có thể tạm giải thích như một nốt nhạc tự nó không có ý nghĩa gì mà chỉ khi có sự hiện diện của những nốt nhạc khác vì âm nhạc là sự tương quan của nốt nhạc với nhau. Sự tương quan này có tính cách tự do, không thể nắm giữ được mà chỉ có thể cảm nhận được qua những âm điệu du dương trầm bổng. Nếu phân tích âm điệu này thành từng phần nhỏ, ta chỉ còn những nốt nhạc rời rạc vô hồn không có ý nghĩa gì hết. Ngay trong giây phút mà chúng ta bắt đầu phân tích, sắp đặt thành hệ thống các kinh nghiệm tâm linh thì chúng ta bóp chết sự sống động mầu nhiệm của chúng rồi.

    Đối với những vị thầy mà tôi được biết, Tomo Geshe Rinpoche đương nhiên là vị thầy quan trọng nhất. Một sự liên quan mật thiết đã nối liền tâm thức tôi với ngài ngay trong buổi lễ nhập môn. Lúc đó tôi không biết gì nhiều về ngài nên đã tránh được những chủ quan mà người khác thường gặp phải khi tiếp xúc với một bậc tu hành như vậy. Nhờ quan sát với một tinh thần vô tư tuyệt đối mà tôi nhận thấy ngài sở hữu rất nhiều quyền năng (Siddhi) chỉ có ở những bậc tu chứng. Dĩ nhiên không bao giờ ngài khoe khoang điều này nhưng nhiều sự kiện xảy ra một cách tự nhiên đã xác nhận điều nhận xét của tôi.

    Hôm đó, chúng tôi quây quần bên ngoài để nghe nói về các kinh nghiệm khi thiền định. Thubden Sherab vì đã tu cao nên có nhiều câu hỏi mà tôi không hiểu gì hết. Tôi ngồi nghe nhưng tâm hồn cứ vẩn vơ những chuyện đâu đâu.

    Tôi nghĩ rằng có hợp ắt có tan, có gặp gỡ thì cũng có ngày tạm biệt, một ngày nào đó Hòa thượng Tomo sẽ rời nơi đây để vân du nơi nào đó. Biết bao giờ tôi mới có dịp được ngồi bên ngài, để được che chở trong luồng từ điện an tĩnh toát ra từ ngài như thế này? Mặc dù Tomo Rinpoche đã dạy rằng thời gian và không gian chỉ là những gì tương đối, giữa tôi và ngài nối liền bởi một cây cầu tâm thức thì dù xa xôi vạn dặm mà ngài vẫn như ở bên cạnh, vẫn chăm lo săn sóc được cho tôi. Lúc đó tôi chưa có đủ tin tưởng nên chỉ ao ước có một cái gì rõ rệt hơn như một là bùa hộ mệnh, một pho tượng Phật nhỏ đeo trước ngực để che chở khi cần thiết.

    Tôi còn đang mải miết suy nghĩ thì Hòa thượng Tomo đã ngừng câu chuyện với Sherab, quay về phía tôi tuyên bố:

    – Trước khi rời nơi đây, ta sẽ cho con một pho tượng Phật nhỏ để con biết rằng lúc nào ta cũng để ý và săn sóc đến con.

    Tôi bàng hoàng đến nỗi không thốt ra được một lời nào. Điều tôi không dám nói nhưng đã nghĩ đến thì cũng như nói ra rồi và Hòa thượng Tomo có thể đọc rõ tư tưởng của tôi như một cuốn sách. Dù đang chú tâm chỉ dẫn cho Thubden Sherab nhưng ngài vẫn theo dõi được từng tư tưởng các đệ tử, nghe được các ao ước thầm kín của họ. Đây là một quyền năng mà kinh điển Tây Tạng gọi là “thiên lý nhĩ” (divine ear), nghe được mọi điều cầu xin của thế gian.

    Hòa thượng Tomo tu theo hạnh Đầu Đà (Anagarika) ít khi ở đâu lâu dài mà thưởng di chuyển khắp nơi để thuyết pháp, độ sanh. Thỉng thoảng ngài dừng chân tại một nơi nào đó để nhập thất, tĩnh dưỡng ít lâu lại tiếp tục công việc hoằng pháp. Lần này ngài đã lưu lại tu viện Yi Gah Cho-li này hơn một năm để nhập thất nhưng đến lúc ngài phải lên đường….

    Giờ phút cuối, khi tôi qùy trước mặt ngài làm lễ tạm biệt thì ngài rút trong túi ra một pho tượng Phật nhỏ và nói rằng trong suốt thời gian qua, lúc nào ngài cũng cầm pho tượng này trong tay khi thiền định cho đến lúc trao nó cho tôi.

    Vừa đón lấy pho tượng, tôi đã cảm thấy ngay một luồng từ điện mãnh liệt như sóng biển cuồn cuộn từ pho tượng chuyển qua khiến tôi thấy mình chìm đắm trong một biển tình thương rộng lớn. Tôi cúi rạp người xuống nước mắt ràn rụa không sao thốt nên lời. Từ đó tôi biết rằng, dù xa cách muôn trùng, ngài không bao giờ xa tôi và dù ở bất cứ nơi đâu ngài cũng thường xuyên để ý và săn sóc đến tôi.




  5. #15
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    4 – Đường mây rộng mở


    Tôi tiếp tục sống tại tu viện Yi Gah Cholin một thời gian trước khi trở về Tích Lan. Mỗi ngày tôi đều chăm chỉ thực hành các nghi thức Hòa thượng Tomo truyền dạy cũng như trì tụng bài thần chú ngắn khẩu truyền. Tôi thường theo Kachenia làm những công việc tầm thường trong tu viện nhưng bây giờ nó không còn “tầm thường” nữa. Từng bước đi, từng cử chỉ của tôi đã bắt đầu ăn khớp với tâm thức. Từng hơi thở, từng tư tưởng dần dần được sự kiểm soát của nội tâm. Đời sống đối với tôi không còn là một sự cố gắng (struggle) nhưng là một cái gì mầu nhiệm đến lạ lùng…



    Một hôm tôi theo đoàn khách thường mạo hiểm lên tận đỉnh núi để nhìn vào đất Tây Tạng, ước mong sẽ theo chân Hòa thượng Tomo vân du khắp dãy Tuyết Sơn bắt đầu nảy sinh trong đầu óc tôi. Tôi nhủ thầm thế nào cũng có ngày phải du hành vào Tây Tạng để thăm những ngôi chùa cổ, những di tích lịch sử huyền bí, những đạo sư, tu sĩ nhập thất mà Hòa thượng Tomo đã đề cập trong những buổi nói chuyện với các đệ tử. Nhưng tôi chưa thể vào Tây Tạng vì không có thông hành, ngoài ra tôi còn nhiều việc dở dang tại Tích Lan nên chưa thể làm một cuộc hành trình như vậy trong lúc này.

    Tây Tạng là một quốc gia hẻo lánh ngăn cách với thế giới bên ngoài bằng một rặng núi cực kỳ hiểm trở. Mặc dù người Anh đã chinh phục Tây Tạng và mở đường giao thông từ Darjeeling đến Lhassa nhưng trong vòng mấy chục năm nay, rất ít người ngoại quốc nào dám bén mảng vào đây. Ngay các viên chức ngoại giao cũng chỉ dám đi theo những lộ trình nhất định, dưới sự hộ vệ của một đại đội võ trang cẩn thận. Không phải người ta sợ giặc cướp hay những cuộc nổi dậy của dân chúng địa phương nhưng Tây Tạng có một cái gì huyền bí lạ lùng, một “cái gì” không thể diễn tả, chính vì không thể diễn tả mà người ta sợ và vì sợ hãi mà Tây Tạng trở nên một vùng đất cấm, không mấy ai dám đặt chân đến.

    Tôi trở về Tích Lan được ba năm nhưng giấc mộng du lịch Tây Tạng vẫn không phai mờ trong tâm trí. Đơn xin du lịch Tây Tạng của tôi bị chính quyền Anh từ chối, người ta đã viện đủ mọi lý lẽ, để bác bỏ hồ sơ. Sau cùng khi đơn khiếu nại của tôi lên đến vị Phó Vương (Viceroy) Ấn Độ thì bộ ngoại giao viện lẽ Tây Tạng với chính sách “bế quan tỏa cảng” không chấp nhận bất cứ một du khách nào, kể cả những tu sĩ đi thăm viếng các di tích tôn giáo. Tôi viết thư cho chính quyền Tây Tạng nhưng không nhận được hồi âm, tuy nhiên vì một lý do gì tôi biết thế nào cũng có ngày mình sẽ đặt chân lên “miền đất hứa” lạ lùng huyền bí đó.

    Cơ hội đã đến khi tôi có dịp cùng với phái đoàn Phật giáo cầm đầu bởi học giả Rahula Sankritiyana tham dự buổi họp thảo tại Srinaga. Vì miền này cách biên giới Tây Tạng không xa, tôi quyết định mạo hiểm đột nhập vào đây. Từ lâu tôi đã chuẩn bị cẩn thận cho chuyến đi này, tôi tập ngủ giữa trời chỉ phủ lên mình một tấm chăn dầy bằng nỉ. Tôi mướn hai người hướng đạo nổi tiếng thành thạo và bắt đầu cuộc hành trình vượt đèo Karakorum để vào Tây Tạng. Ngay lúc khởi hành, một trận bão lớn nổi lên như đe doạ. Sấm chớp sáng lòe cả góc trời rồi một trận mưa đá trút xuống khiến ai cũng e ngại. Tôi nhìn ngọn đèn cao trước mặt như một chướng ngại đầu tiên và nhủ thầm nếu không vượt qua được nó thì có lẽ không bao giờ tôi có cơ hội vào Tây Tạng nữa. Tôi hít một hơi dài rồi quyết định giục lừa tiến bước, hai người hướng đạo lầm lũi mở đường. Gió rít lên từng cơn, những hạt mưa đá tạt vào mặt làm tôi đau nhói nhưng tôi nhất định lần này phải vào cho được Tây Tạng.




  6. #16
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    Chúng tôi lầm lũi đi như trong một giấc mộng, không ai thốt lên một lời. Hình như cả ba chúng tôi đều bị thu hút bởi con đường ngoằn nghèo trước mặt, ngay cả những con lừa cũng không vùng vằng hí vang mà cắm cúi bước đi như bị một sức mạnh vô hình lôi cuốn. Những đám mây thấp giăng ngang đường đèo, chúng tôi có cảm tưởng như đang đi trên mây, hết lớp mây này đến lớp mây khác. Mây ở trên đầu chúng tôi, mây ở dưới chân tôi. Thỉnh thoảng một cơn gió thổi qua cuốn đi lớp mây mù để lộ ra những tảng đá lởm chởm bám đầy rong rêu. Những thân cây uốn éo mọc ở hai bên đường như hàng trăm ngàn cánh tay của những con quái vật xông ra chực đón bắt khách bộ hành, nhưng rồi mây mù ở trên cao lại tràn xuống phủ kín tất cả. Chúng tôi tiếp tục leo lên cao mãi trong cái biển mây mù mịt này; con đường độc đạo uốn quanh những sườn núi ngày càng trở nên nhỏ hẹp và nguy hiểm, chỉ một sơ sẩy người ta có thể ngã xuống vực sâu…

    Chiều hôm đó chúng tôi đến một vùng tương đối quang đãng, khoảng vài ngàn thước cao nên không cây cối nào có thể mọc được, chỉ có những tảng đá khổng lồ hình thù kỳ dị nằm dọc theo lối đi.

    Người hướng đạo cho biết có một thạch tự (rock monastery) xây khuất trong hẻm núi cách đó không xa. Vì trời gần tối nên tôi quyết định ghé vào đó xin trọ một đêm thay vì ngủ giữa trời như mấy hôm trước. Chúng tôi dắt lừa đi theo con đường nhỏ hẹp ngoằn ngoèo nhưng chỉ được một lúc không hiểu sao bầy lừa không chịu đi nữa. chúng tôi đành cột lừa vào gốc đá rồi theo con đường nhỏ gập ghềnh để tiến vào tu viện.

    Đó là một tu viện hoàn toàn xây bằng đá nằm sâu trong một hẻm núi, quanh tu viện có hàng trăm tháp nhỏ (Chorten) nhấp nhô theo triền núi, nhiều tháp còn treo những lá cờ rách nát với những dòng chữ lạ lùng. Cửa tu viện mở rộng nhưng bên trong vắng lặng, không một bóng người. Tôi đang loay hoay không biết phải làm gì thì người dẫn đạo đã bước đến bên một tảng đá lớn phẳng phiu dựng bên cánh cửa, y nhặt một hòn đá cạnh đó rồi gõ mạnh lên tảng đá. Một âm thanh thanh trầm trầm vang lên, thì ra đó là một cái chuông bằng đá. Chúng tôi đứng chờ một lúc nhưng không thấy ai bước ra. Vì biết những ngôi nhà hẻo tại Tây Tạng đều nuôi chó, một loại chó thấp nhỏ nhưng rất dữ nên tôi e ngại không dám bước vào. Sau mấy lần gõ chuông mà vẫn không thấy ai, tôi bèn đánh bạo bước vào trong sân. Cảnh vật bên trong im lìm một cách kỳ lạ, tôi rón rén đi dọc theo chiếc sân hẹp để vào chánh điện nhưng vừa đi được vài bước thì có tiếng chó sủa vang. Là một người sợ chó, tôi nhẩy nhôm toan bỏ chạy thì thấy một vị lạt ma già, mặt đầy những vết nhăn ở đâu bước ra.

    Tôi cung kính chấp tay chảo, định lên tiếng xin trú ngụ qua đêm nhưng nhìn thấy bộ áo tăng bào trên người tôi, vị lạt ma đã nhanh nhẩu lên tiếng trước mời tôi vào chánh điện lễ Phật.

    Tôi bước theo vị lạt ma qua một dẫy hành lang hẹp, chánh điện là một hang động rất lớn với rất nhiều hình vẽ lạ lùng khắc trên vách đá. Chính giữa chánh điện là một bức tượng Phật Di Lặc rất lớn, hai bên có nhiều pho tượng Bồ Tát bằng đá trông rất linh động. Sau khi làm lễ trước chánh điện, tôi được mời vào một căn phòng nhỏ, vị lạt ma già cho biết đó là căn phòng dành riêng cho một vị khách quý mỗi khi ngài ghé qua đây.

    Trong lúc tôi đang đàm đạo với vị Lạt Ma già thì người hướng đạo mang hành trang của tôi vào phòng, theo sau là một số tăng sĩ trong chùa tò mò muốn biết mặt vị tu sĩ từ phương xa đến.

    Tôi mở hành lý lấy ra cái lò đốt để chuẩn bị nấu trà, mọi người xúm quanh nhìn chiếc lò bằng sắt. Có lẽ họ chưa bao giờ thấy một chiếc lò như thế, khi tôi đổ dầu hôi vào bếp và châm lửa thì tất cả chợt im bặt. Những con mắt thao láo đổ dồn lên chiếc lò như tự hỏi làm sao người ta có thể tạo ra lửa từ một chất lỏng như nước kia. Nhiều người lắc đầu như không tin, có lẽ họ nghĩ vị Lạt Ma này hẳn phải là một vị phù thủy, vài người tò mò dơ tay trước ngọn lửa như sợ rằng đó chỉ là một trò ảo thuật nhưng họ đã rút tay lại khi chạm phải hơi nóng.

    Nếu tôi bay bổng lên không trung hay hô phong hoán vũ cũng không làm họ ngạc nhiên bằng việc đổ một chất lỏng như nước lên chiếc hộp sắt rồi tạo ra lửa. Nhiều người có vẻ sợ sệt không biết tôi sẽ sử dụng ngọn lửa vào việc gì, một vài người lùi lại lẩm bẩm niệm Phật nhiều rồi họ đều cười ầm lên khi thấy tôi đặt chiếc ấm sắt lên lò rồi bỏ vào đó một nhúm trà. Họ tò mò xem xét cách tôi pha trà nhưng vì đã sống tại Yi Ga Cho-lin nên tôi làm đúng như cách pha trà của người Tây Tạng. Sau cùng thấy không có gì lạ, họ kéo nhau đi để tôi ngồi lại trong chiếc phòng bằng đá đục sâu vào vách núi.




  7. #17
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    Trời chưa tối hẳn và tôi cũng không cảm thấy buồn ngủ. Tôi xếp bằng trên tấm nệm và bắt đầu chuẩn bị nghi thức đọc thần chú. Tự nhiên tôi cảm thấy căn phòng này phảng phất một cái gì quen thuộc, một không khí bình an, êm tĩnh lạ thường. Bao mệt nhọc của chuyến hành trình dường như tan biến ngay khi tôi vừa đặt chân vào đây. Tôi bắt đầu tụng bài chú thì một sự kỳ lạ diễn ra, bức tường đá trước mặt dường như chuyển động, hình như nó đang sống dậy rồi một linh ảnh hiện ra trước mặt tôi. Trong ánh hào quang sáng rỡ, Đức Di Lặc đang oai nghiêm ngồi trên một tòa sen, hai tay xếp vào nhau theo Đại Tam Muội ấn. Tôi nhắm mắt lại một lúc để trấn tĩnh tâm hồn rồi mở mắt ra thì hình ảnh Đức Di Lặc vẫn hiện ra rõ ràng trước mắt, oai nghi và sống động hơn bao giờ hết. Tự nhiên tôi thấy trong lòng dâng lên một cảm xúc khó tả, một sự tĩnh lặng bình an mà tôi chỉ cảm thấy mỗi khi ở gần Hòa thượng Tomo. Tôi cảm thấy sự hiện diện của sư phụ tôi rất gần, ngay ở bên tôi, hình như ngài đang hướng dẫn tôi bước vào luồng hào quang rực rỡ của Đức Di Lạc, tai tôi nghe vang vang những điệu âm của bài chú mà tôi vẫn tụng không biết bao lần.

    Tôi quay lại nhìn căn phòng, đồ đạc vẫn y nguyên không thay đổi và rõ ràng tôi không hề mê ngủ vì tôi có thể kiểm soát được tay chân một cách dễ dàng, tôi quay lại nhìn bức tường đá và thấy một ánh sáng rực rỡ tỏa lan khắp nơi, trong luồng ánh sáng đó có hằng hà sa số chư Phật, chư Bồ Tát đang thuyết pháp… diệu âm vang lừng không gian. Tôi thấy rõ ràng mình đang đứng trước hải hội chư Phật đó, đang cúi đầu đảnh lễ và dâng lên những bông hoa Mạn Đà La rực rỡ cúng dường chư Phật. Tôi nghe rõ từng lời kinh, từng câu thần chú quen thuộc và thấy những tòa sen liên kết thành hình những đàn tràng Mạn Đà La, những biểu tự ngoằn ngoèo chói sáng tác động mạnh mẽ vào tâm thức tôi làm tôi thấy mình như rơi vào một biển ánh sáng quang minh rực rỡ. Tôi phải nhằm mắt lại một lúc mới giữ được cho tâm không xúc động.

    Khi tôi mở mắt ra thì cái linh ảnh đã biến mất, trên tường chỉ còn lại một tia nắng ấm áp từ cửa sổ rọi vào. Tôi thấy người nhẹ nhàng sảng khoái một cách lạ lùng, bên ngoài cửa sổ cảnh vật hiện ra rõ ràng dưới ánh nắng của buổi chiều tà. Có tiếng chuông thu không ở đâu vọng lại, ngân dài trong không gian…

    Sáng hôm sau tôi thức dậy, thu xếp hành trang để chuẩn bị lên đường. Tôi muốn gặp vị Lạt Ma già đã tiếp tôi hôm trước để ngỏ lời cám ơn nhưng cả tu viện đều vắng tanh, không một bóng người.

    Tôi bước dọc theo dãy hành lang dài nơi có vẽ những hình ảnh các vị Bồ Tát, các vị Phật cũng như các biểu tự ngoằn ngoèo…

    Người dẫn đạo nhìn thấy tôi đang trầm ngâm bèn lên tiếng:

    – Hình như chỗ này làm ông không được vui hay sao?

    – Không đâu, tôi rất thích cái không khí nơi đây, ít chỗ nào lại êm đềm thanh tịnh như ngôi thạch tự này.

    – Đã hẳn, ông ngủ trong căn phòng đá đó thì dĩ nhiên phải yên tĩnh rồi.

    – Tại sao vậy?

    Người dẫn đạo kể lể:

    – Hôm qua các vị tăng trong chùa này bàn cãi với nhau rất lâu về việc để ông ngủ trong căn phòng đó. Đó không phải một căn phòng thông thường nhưng được dành riêng cho một vị khách quý của chùa mà thôi. Vị này đã có công xây dựng lên ngôi thạch tự này, thỉnh thoảng ngài có ghé qua đây thuyết pháp và chỉ dẫn cho các tăng sĩ trong chùa…

    Tự nhiên tôi giật nẩy mình, một ý tưởng bất ngờ nổi lên khiến tôi vội vã hỏi dồn:

    – Nhưng… nhưng vị đó là ai?

    – Tôi không biết rõ tên ngài nhưng mọi người thường gọi ngài là vị hòa thượng làng Tomo, ngài thường đi khắp Tây Tạng thuyết pháp và dựng chùa thờ Phật Di Lặc, vị Phật tương lai sẽ chuyển kiếp xuống trần trong một thời gian nữa…

    Tôi buột miệng la lớn:

    – Đó là sư phụ tôi…

    Thốt nhiên tôi bỗng ý thức rõ rệt bầu không khí an tĩnh của tu viện này cũng như cái linh ảnh mà tôi chiêm ngưỡng hôm qua. Cái linh ảnh đó là một kinh nghiệm tâm linh cho thấy rằng tôi vừa được điểm đạo lần thứ hai (second initiation).




  8. #18
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    Trong buổi lễ điểm đạo lần đầu cách đây bốn năm tại Yi Ga Cho-lin, Hòa thượng Tomo đã dặn tôi: “Một ngày nào đó, con sẽ thấy được những hóa thân (transcedantal bodies) của chư Phật và chư Bồ Tát, vốn là những điểm linh quang hiện hữu trong tâm con. Dĩ nhiên hiện nay đó chỉ là một quan niệm trừu tượng vì nghiệp chướng con còn dày, con chưa thể ý thức rõ rệt được. Nhờ trì tụng bài thần chú khẩu truyền (oral mantra) con sẽ tiêu trừ được những nghiệp chướng này và đến khi đó con sẽ quán chếu mọi sự một cách rõ ràng hơn. Nhờ suy ngẫm về tánh không của sự vật cũng như phát triển tâm bồ đề rộng lớn mà con sẽ nhập được pháp giới, thấy được những hải hội chư Phật, chư Bồ Tát rồi hóa thân để cúng dường. Khi nào con thấy chư Phật hiện ra rõ ràng như thật trước mặt con thì con sẽ ý thức rằng cái thế giới bên trong cũng như bên ngoài có thể chuyển biến được (interchangeable). Lúc đó tùy con lựa chọn muốn sống trong thế giới nào, hướng ra bên ngoài hay quay vào bên trong, muốn trở thành nô lệ của xác thân, chìm đắm trong sinh tử luân hồi hay biết tận dụng khả năng giác ngộ vẫn có sẵn trong người để chuyển mê khải ngộ, vượt ra khỏi xiềng xích kiềm tỏa của vòng luân hồi.

    Hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy rõ rệt sự hiện diện của Hòa thượng Tomo trong tâm thức mình, lúc đó tôi mới thực sự tin tưởng một cách chắc chắn về cái cầu tâm thức giữa tôi và ngài. Chính ngài đã giúp sức cho tôi vượt qua những rặng núi cao cực kỳ hiểm trở để đến ngôi chùa mà ngài đã xây dựng nhiều năm trước đó. Chính ngài đã hướng dẫn vị Lạt Ma trụ trì đưa tôi trú ngụ trong căn phòng đặc biệt dành riêng cho ngài. Tôi cúi đầu chú tâm vào bài thần chú mà ngài đã truyền riêng cho tôi, đầu óc tôi trở nên thông suốt một cách lạ thường, dường như có một tiếng nói vô thanh nổi lên giải đáp mọi thắc mắc vẫn có từ trước đến nay. Tự nhiên tôi ngửng đầu nhìn lên những bức tranh vẽ trên vách đá và chợt hiểu…

    Điều mà trong lúc trú ngụ tại tu viện Yi Ga Cholin tôi vẫn thắc mắc nay đã được giải đáp. Những bức tranh vẽ trên tường, những chủng tự ngoằn ngoèo thần bí không phải chỉ là những hình thức trang trí nghệ thuật mà còn tượng trưng cho một ý nghĩa cao siêu mầu nhiệm xuất phát từ những kinh nghiệm nội tâm của người họa sĩ. Họ đã vẽ lại một cách chính xác những sự rung động của làn sóng quang minh của tâm thức. Nói một cách giản dị hơn, các chủng tự đó là một ngôn ngữ thần bí mà chỉ có những bậc đạo đồ đã được điểm đạo, đã có những kinh nghiệm tâm linh, đã mở được đạo nhãn thì mới có thể hiểu được.

    Tôi cũng ý thức rằng sư phụ tôi. Hòa thượng Tomo đã vén màn bí mật này cho tôi với một mục đích rõ rệt. Ngài có ý muốn tôi mang những bức tranh này, những biểu tự này truyền ra ngoài nhưng vào mục đích gì thì lúc đó tôi chưa thể hiểu được. Dĩ nhiên đối với một người thường thì đó chỉ là những bức tranh, những dòng chữ ngoằn ngoèo nhưng với những người đã gia công tu trì Mật Tông bằng cách quán chiếu những chủng tự thì nó mang một ý nghĩa khác hẳn, mầu nhiệm và huyền bí vô cùng.




  9. #19
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    Vì lý do này, tôi đã sưu tầm những bức họa cổ Tây Tạng và đặc biệt tô lại (pencil tracing) những bức họa khắc trên vách đá tại những hang động của các bậc tu chứng, những công trình sưu tập của tôi là hình vẽ tám mươi bốn vị La Hán Tây Tạng hiện được trưng bày tại bảo tàng viện Allahabad.

    Như có một bàn tay vô hình hướng dẫn, chuyến du hành đã đưa tôi đến nhiều tu viện cổ, nơi lưu trữ những kinh điển, tài liệu soạn thảo từ thế kỷ 11. Khí hậu Tây Tạng tuy lạnh nhưng khô ráo nên những bức họa cổ, những bức khắc bằng gỗ trải qua hàng ngàn năm mà vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chắc chắn rằng ngày nay, người ta còn có thể tìm được nhiều tài liệu quý báu trong những tu viện bị bỏ hoang hay những hang động nằm trong những địa điểm bí mật, ít ai đặt chân đến. Cũng trong chuyến du hành này, tôi đã mang về được nhiều bộ kinh điển quý giá phiên dịch bởi Đại sư Rinchen Zangpo, nhà dịch giả nổi tiếng đã truyền bá Phật giáo vào Tây Tạng trong thế kỷ 11. Chính Đại sư là người đã phiên dịch hai bộ kinh quan trọng nhất của Mật Tông, bộ Kangjur và Tangjur mà gần như người Tây Tạng nào cũng trì tụng. Hiện nay những bộ sách này đang được lưu trữ tại thư viện thành phố Dharamsala.

    Khu chúng tôi vượt qua đỉnh Karakorum thì khí hậu bỗng trở nên ấm áp một cách bất ngờ. Tôi vội cởi bỏ ngay chiếc áo choàng dài cho thoải mái nhưng chỉ một lúc sau tôi biết mình đã lầm. Khí hậu Tây Tạng thay đổi vô cùng đột ngột, ngoài nắng nhiệt độ có thể lên gần đến một trăm độ nhưng trong bóng mát nó lại xuống gần không độ là chuyện thường. Ngồi trên ngựa, mặt và tay tôi sưng phồng lên vì nắng nhưng chân tôi ủ trong đôi giầy lại tê cóng vì lạnh. Mặc dù đã bôi đủ loại thuốc nhưng da tôi vẫn bị rộp lên, đau đớn vô cùng. May thay chỉ một thời gian sau, cơ thể tôi quen dần với khí hậu nơi đây nên không còn khó chịu nữa.

    Bình nguyên Aksai là một trong những nơi hoang vu nhất Tây Tạng, rất ít ai đặt chân đến kể cả những người dân bản xứ. Trong cảnh thiên nhiên hùng vĩ bao la này tôi mới thực sự ý thức danh từ “tự do”, một danh từ thường bị lạm dụng trong đời sống “văn minh” ngày nay.

    Làm sao có thể gọi là tự do khi từng chi tiết nhỏ nhặt của đời sống đều được hoạch định cẩn thận? Làm sao có thể gọi là tự do khi mỗi giây phút đều được kiểm soát bởi những thời khóa biểu hay cái đồng hồ? Tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi nhưng là khả năng chấp nhận tất cả mọi sự, kể cả những sự đến một cách bất ngờ. Tự do là đón nhận sự sống với vòng tay mở rộng, là khả năng thay đổi theo hoàn cảnh chung quanh nhưng vẫn không mất đi lòng tin vững chắc nơi mình. Tự do là kinh nghiệ tất cả với một tinh thần khách quan vô tư, là quan sát một cách hồn nhiên không thành kiến. Con người đã phát minh ra đồng hồ để đo lường thời gian nhưng họ cũng vô tình chia cắt sự sống đang cuồn cuộn chảy khắp nơi thành những mảnh vụn nhỏ rời rạc. Họ càng cố gắng tiết kiệm thời giờ chừng nào thì lại càng mất đi sự sống mầu nhiệm chừng đó. Tự do thật sự là sống từng giờ, từng phút khi qúa khứ trở thành hiện tại và hiện tại chính là tương lai hay một thứ hiện tại vĩnh cửu.

    Từ khi bước chân vào Tây Tạng, tôi ý thức được một sự chuyển hóa kỳ lạ diễn ra trong người. Công phu tu hành của tôi bỗng tiến bộ vượt bậc, tôi có thể nhập định, quán tưởng những điều đã được chỉ dạy một cách dễ dàng. Tôi tự hỏi phải chăng Tây Tạng có cái gì đặc biệt hơn những nơi khác chăng? Sau này suy nghĩ mãi tôi mới tìm được một cách giải thích mà tôi cho là có lý hơn cả: Hòa thượng Tomo đã truyền dạy cho tôi phương pháp thiền định trong đó hơi thở (Pranayama) phải đi đôi với cử chỉ, hành động (Asana) và đặt dưới sự kiểm soát của ý chí.




  10. #20
    HOA Avatar của chimvacgoidan
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    9.688
    Thanks
    674
    Thanked 146 Times in 140 Posts


    Trên độ cao của bình nguyên Aksai, không khí rất lỏng nên người ta phải hít vào thật sâu mới có đủ dưỡng khí. Sự thở hít thật sâu một cách vô tình này không khác cách kiểm soát hơi thở Pranayama là bao nhiêu. Trên đường thiên lý, người ta không thể ngồi mãi trên lưng ngựa mà có khi phải đi bộ cho lừa ngựa được nghỉ ngơi. Nhưng người ta không thể đi nhanh chậm tùy ý mà phải cố gắng tiết kiệm sức lực bằng cách đi thật đều và giảm bớt các cử chỉ vung tay, vung chân thừa thãi. Sự kiểm soát cử chỉ này cũng không khác các tư thế Asana là mấy. Ngoài ra lúc nào tôi cũng cố gắng định tâm để niệm các bài thần chú khẩu truyền (Mantra) ngày cũng như đêm. Nói tóm lại, tôi đã vô tình thực hiện phương pháp thiền định mà Hòa thượng Tomo truyền dạy trong suốt cuộc hành trình, có lẽ vì thế công phu tu hành của tôi tự nhiên tiến bộ một cách bất ngờ như vậy.

    Trong sự tĩnh lặng bao la của thiên nhiên, khả năng tập trung tư tưởng để quan sát nội tâm trở nên dễ dàng hơn vì không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh. Bầu trời rộng rãi trở nên một cái gương lớn phản chiếu tất cả những tư tưởng thầm kín bên trong và khuếch đại nó lên hàng trăm lần. Chính trong sự yên lặng này mà đầu óc con người trở thành vô cùng mẫn cảm, điều này giải thích hiện tượng “thần giao cách cảm” thường có ở các giống dân du mục miền này.

    Nhà thám hiểm Sven Hedin đã viết trong cuốn du ký rằng ông đã theo chân một đoàn khách thương vượt bình nguyên Chang Tang để vào Tân Cương. Đoàn lữ hành mướn một người hướng đạo nhưng anh này thường cưỡi ngựa đi trước khoảng một dặm đường vì anh không thể tập trung tư tưởng dẫn đường khi đầu óc bị chi phối bởi những tiếng động ồn ào, náo nhiệt của đám khách thương. Đoàn người đi được ít lâu thì người hướng đạo bị bệnh rồi chết. Dĩ nhiên đoàn khách thương đành quay ngược về lối cũ chứ không thể đi thêm. Vừa đi được ít lâu họ gặp một thanh niên khác hối hả đi đến, anh này xưng là em ruột của người hướng đạo vừa chết. Anh cho biết trước khi chết, người hướng đạo đã tập trung tư tưởng chuyển một thông điệp cho em để nhờ người này hướng dẫn đoàn khách thương vượt qua giải bình nguyên như chương trình dự định.

    Khi đọc cuốn sách của Sven Hedin, tôi không lấy gì làm tin tưởng cho lắm nhưng một trường hợp xảy ra đã làm tôi phải suy nghĩ nhiều: Trong lúc du lịch tại Tây Tạng, tôi vẫn lo lắng cho mẹ tôi ở nhà. Tôi lo rằng bà cụ có thể đau ốm hoặc chết trước khi tôi có thể về thăm bà lần cuối. Lần đó LiGotami, người bạn đồng hành của tôi đã bầy tỏ chuyện nầy cho những người hướng đạo. Hôm sau, một người hướng đạo cho biết mẹ tôi vẫn mạnh khoẻ như thường nhưng bà cụ ít khi đi đâu vì chân bị phong thấp. Dĩ nhiên tôi không tin tưởng gì vào một điều tiên đoán vu vơ như vậy nhưng vài tuần lễ sau, tôi nhận thư mẹ tôi nói là bà vẫn mạnh khỏe nhưng khó đi đứng vì chân bên trái bị sưng to.




    Li Gotami, Anagariki Govinda, Nyanaponika Thera vào cuối những năm 1960 hoặc đầu những năm 1970 (ảnh wikipedia)



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •